✨Konstantinos VII

Konstantinos VII

Konstantinos VII Porphyrogennetos hay Porphyrogenitus, nghĩa là "Dòng dõi vương giả" (; 2 tháng 9, 905 – 9 tháng 9, 959), là vị Hoàng đế thứ tư thuộc vương triều Makedonia của Đế quốc Đông La Mã, trị vì từ năm 913 đến 959. Ông là con trai của Hoàng đế Leon VI và người vợ thứ tư Zoe Karbonopsina, và cũng là cháu của tiên đế Alexandros.

Hầu hết triều đại của ông đều chịu sự chi phối của các đồng nhiếp chính: từ năm 913 đến 919 là thời kỳ thái hậu Zoe buông rèm nhiếp chính, trong khi từ năm 920 đến 945 Konstantinos phải chia sẻ ngôi báu với người cha vợ Romanos Lekapenos cùng đám con cháu kế cận. Hoàng đế còn được biết đến với bốn tác phẩm nổi tiếng của mình gồm De Administrando Imperio (dịch sang tiếng Hy Lạp là Πρὸς τὸν ἴδιον υἱόν Ῥωμανόν), De Ceremoniis (Περὶ τῆς Βασιλείου Τάξεως), De Thematibus (Περὶ θεμάτων Άνατολῆς καὶ Δύσεως), và Vita Basilii (Βίος Βασιλείου).

Biệt danh của ông ám chỉ đến căn phòng màu tím của Cung thất được trang hoàng với pocfia, nơi những đứa trẻ hợp pháp của các hoàng đế trị vì đã được sinh ra bình thường. Konstantinos cũng được sinh ra trong căn phòng này, mặc dù mẹ ông không được kết hôn với Leon tại thời điểm đó. Tuy nhiên, tính ngữ này lại cho phép ông nhấn mạnh đến địa vị của mình là một đứa con hợp pháp, trái với tất cả những người khác đã tuyên bố ngôi vị trong suốt cuộc đời họ. Những đứa con trai sinh ra cho một vị Hoàng đế trị vì thường được ưu tiên xếp vào dòng dõi thừa kế Đông La Mã hơn người con trai trưởng không sinh ra "trong màu áo tía".

Triều đại

trái|nhỏ|240x240px|Lễ đăng quang của Konstantinos VII. Konstantinos chào đời tại kinh thành Constantinopolis vào ngày 2 tháng 9 năm 905, là một đứa con ngoài giá thú sinh ra trước cuộc hôn nhân thứ tư không hợp quy chuẩn. Để giúp hợp pháp hóa nó, bà mẹ đã lén sinh ông trong căn phòng màu tím của hoàng cung, vì thế mà Konstantinos có biệt danh là Porphyrogennetos. Ông được phụ hoàng và hoàng thúc chọn lên ngôi mang tính tượng trưng khi mới lên hai tuổi vào ngày 15 tháng 5 năm 908. Sau cái chết của hoàng thúc Alexandros vào năm 913 và sự thất bại trong việc soán ngôi của Konstantinos Doukas, ông chính thức kế thừa ngôi vị ở tuổi lên bảy dưới quyền nhiếp chính của Thượng phụ Constantinopolis, Nicholas Mystikos.

Thượng phụ Nicholas ngay sau đó buộc phải làm hòa với Sa hoàng Simeon của Bulgaria, người mà ông miễn cưỡng công nhận là Hoàng đế Bungaria. Vì sự nhượng bộ không mấy dễ chịu này mà Thượng phụ Nicholas đã bị Thái hậu Zoe đẩy ra khỏi chức nhiếp chính vương. Riêng bà cũng chẳng thành công gì hơn với người Bulgaria vì họ đã đánh bại người ủng hộ chính của mình là tướng quân Leon Phokas vào năm 917. Năm 919, quyền nhiếp chính của bà bị thay thế bởi đô đốc Romanos Lekapenos, người đã gả con gái mình là Helena Lekapene cho Konstantinos. Romanos sử dụng vị trí của mình để thăng tiến lên tới chức basileopatōr vào tháng 5 năm 919 và kaisar (Caesar) vào tháng 9 năm 919, rồi cuối cùng là đồng hoàng đế vào tháng 12 năm 920. Vì vậy chỉ trong một thơi gian ngắn tới tuổi thành niên trên danh nghĩa, Konstantinos đã bị che khuất bởi một Hoàng đế cấp cao.

thumb|Chúa Kitô đội vương miện cho Konstantinos VII (945)
Thời niên thiếu của Konstantinos tràn ngập nỗi buồn khôn nguôi do vẻ ngoài khó chịu, tính tình ít nói của mình, cũng như việc ông bị giáng xuống hàng thừa kế thứ ba, chịu đứng sau Christophoros Lekapenos, con trưởng của Romanos I Lekapenos. Tuy vậy Konstantinos lại là một chàng thanh niên rất thông minh với mối quan tâm đến khá nhiều lĩnh vực nhất là văn học, phần lớn thời gian còn lại trong những năm qua ông chỉ chú tâm vào việc nghiên cứu nghi lễ trong triều đình.

Romanos cố giữ vững và duy trì quyền lực cho đến năm 944 thì bị đám con cháu là đồng hoàng đế Stephanos và Konstantinos lật đổ. Romanos đã dành những năm cuối đời mình sống lưu vong trên đảo Prote như một tu sĩ và qua đời vào ngày 15 tháng 6 năm 948. Với sự trợ giúp đắc lực từ vợ mình, Konstantinos VII đã thành công trong việc loại bỏ người em rể háo danh và trở thành vị Hoàng đế duy nhất ở tuổi 39 vào ngày 27 tháng 1 năm 945, sau những tháng ngày sống trong đêm tối. Vài tháng sau, Konstantinos VII làm lễ đăng quang cho thái tử Romanos II làm đồng hoàng đế. Để khỏi vướng bận đến việc thực hiện quyền hành pháp, Konstantinos dành phần lớn thời giờ cho các mục đích học thuật và giao lại quyền hành cho các quan viên và tướng lĩnh thân cận, cũng như với người vợ tràn đầy sinh lực Helena Lekapene.

Năm 949 Konstantinos đã điều động một hạm đội mới gồm 100 chiến thuyền (20 tàu dromon, 64 tàu chelandia và 10 tàu galley) đến tiêu diệt đám hải tặc Ả Rập ẩn náu ở Crete, nhưng cũng giống như nỗ lực của tiên đế hòng chiếm lại hòn đảo vào năm 911, nỗ lực này cũng thất bại. Trên phòng tuyến phía đông thì việc này lại được làm tốt hơn dù có được thay thế bởi những thành công khác. Năm 949 Đông La Mã chinh phục được xứ Germanicea, nhiều lần đánh bại quân đội của đối phương và vượt qua vùng thượng du sông Euphrates vào năm 952. Nhưng đến năm 953 amir Ả Rập là Sayf al-Daula đã tái chiếm Germanicea và tiến quân vào lãnh thổ của đế quốc. Vùng đất phía đông cuối cùng đã được Nikephoros Phokas giành lại, ông cũng chính là người đã chinh phục xứ Hadath ở miền bắc Syria vào năm 958, và bởi viên tướng người Armenia là Ioannes Tzimiskes, người một năm sau đó chiếm được Samosata ở miền bắc Lưỡng Hà. Một hạm đội Ả Rập cũng bị phá hủy bởi ngọn lửa Hy Lạp vào năm 957. Những nỗ lực của Konstantinos để chiếm lại các tỉnh thành (themes) rơi vào tay người Ả Rập là những nỗ lực đầu tiên như vậy dù có được chút ít thành công thực sự.

thumb|left|Đoạn mô tả của [[Madrid Skylitzes về giây phút lâm chung của Konstantinos]] Konstantinos cũng có mối quan hệ ngoại giao tích cực với triều đình các xứ ngoại quốc gồm caliph của Cordoba Abd ar-Rahman III và Hoàng đế La Mã Thần thánh Otto I. Ngoài ra còn thêm chuyến viếng thăm của nhiếp chính vương Rus Kiev là Olga của Kiev vào mùa thu năm 957. Nguyên nhân của chuyến đi này đến giờ vẫn còn mơ hồ; nhưng bà được rửa tội thành một người Thiên Chúa giáo với cái tên Helena và còn gửi các phái đoàn truyền giáo khuyến khích người dân của mình cải đạo sang Kitô giáo. Theo truyền thuyết thì Konstantinos VII đã phải lòng Olga nhưng bà tìm cách từ chối bằng cách đánh lừa ông trở thành cha đỡ đầu của mình. Sau khi rửa tội xong thì bà nói rằng sẽ thật khó coi nếu một người cha đỡ đầu lại đi cưới cô con gái mà mình đỡ đầu.

Ít lâu sau Konstantinos VII qua đời ở Constantinopolis vào tháng 11 năm 959 và thái tử lên ngôi hiệu là Romanos II. Có tin đồn rằng Konstantinos đã bị người con trai hoặc con dâu của ông là Theophano đầu độc.

Hoạt động văn học và chính trị

thumb|Đồng xu vàng solidus của Leon VI và Konstantinos VII Porphyrogennetos, 908–912. Konstantinos VII nổi tiếng về khả năng của mình trong vai trò là một nhà văn và học giả. Ông viết hoặc sai người biên soạn các tác phẩm như De Ceremoniis ("Lễ Nghi", trong tiếng Hy Lạp, Περί τῆς Βασιλείου Τάξεως), mô tả các loại nghi lễ triều đình (cũng được mô tả sau này trong một cái nhìn tiêu cực hơn của Liutprand xứ Cremona); De Administrando Imperio ("Về việc quản lý Đế quốc", dịch sang tiếng Hy Lạp với tựa đề Προς τον ίδιον υιόν Ρωμανόν), đưa ra lời khuyên về sự điều hành trong nội bộ Đế quốc và chiến đấu với kẻ thù bên ngoài; một cuốn lịch sử của Đế quốc bao gồm các sự kiện từ sau cái chết của nhà hiền triết Theophanes the Confessor vào năm 817; và Excerpta Historica ("Những trích đoạn Lịch sử"), một tập hợp các trích đoạn từ giới sử học cổ đại (mà nhiều tác phẩm trong số đó giờ đã thất truyền) gồm bốn tập (1. De legationibus. 2. De virtutibus et vitiis. 3. De insidiis. 4. De sententiis.) Ngoài ra trong số các công trình lịch sử của ông là một bộ sử ca tụng về triều đại và những thành tựu của ông nội mình là Hoàng đế Basil I (Vita Basilii, Βίος Βασιλείου). Những quyển sách này có nội dung sâu sắc và quan tâm đến các mặt như sử học, xã hội học, nhân chủng học và đóng vai trò như một nguồn thông tin về các quốc gia láng giềng của Đế quốc Đông La Mã. Chúng còn cung cấp một cái nhìn sâu sắc tốt đẹp về chính Hoàng đế.

thumb|Đồng xu vàng solidus của Konstantinos VII Porphyrogennetos, 913–959. Trong tác phẩm A Short History of Byzantium (Lược sử Byzantium), John Julius Norwich có nhắc đến Konstantinos VII như một vị "Hoàng đế Học giả" và mô tả ông như sau:

Ông ấy như chúng ta được biết là một nhà sưu tập đam mê—không chỉ sách vở và bản thảo mà còn cả những tác phẩm nghệ thuật của mỗi loại; trông vẫn đáng nổi bật hơn là một người thuộc tầng lớp của mình, ông dường như đã là một họa sĩ tuyệt vời. Ông là người bảo trợ hào phóng nhất đối với giới văn nhân và học giả, nghệ sĩ và thợ thủ công. Cuối cùng, ông là một vị Hoàng đế tuyệt vời: một nhà quản lý tài năng, tỉ mỉ và làm việc chăm chỉ, đồng thời cũng chọn người dựa theo cảm hứng, bổ nhiệm vào các chức vụ trong quân đội, hải quân, giáo hội, dân sự và kinh viện đều giàu trí tưởng tượng và thành công. Ông đã làm nhiều việc để phát triển nền giáo dục đại học và có mối quan tâm đặc biệt đến sự công bằng trong chính quyền.
Năm 947, Konstantinos VII đã ra lệnh hoàn trả lại ngay lập tức tất cả đất đai của nông dân mà không cần phải bồi thường; cho đến cuối triều đại của ông, địa vị của giới nông dân được nâng lên giúp hình thành nền tảng của toàn bộ sức mạnh kinh tế và quân sự của đế quốc, trông tốt hơn nhiều so với trước đó chừng một thế kỷ.

Trong tác phẩm The Manuscript Tradition of Polybius (Bản thảo về truyền thống của Polybius), John Michael Moore (CUP, 1965) đã cung cấp một bản tóm tắt sự hữu ích của việc ủy nhiệm bởi Porphyrogenitus trong các trích đoạn về Konstantinos:

Ông cảm thấy rằng việc nghiên cứu lịch sử đã bị lãng quên một cách nghiêm trọng, chủ yếu là do số lượng lớn nguồn sử liệu. Vì thế ông đã quyết định rằng một lựa chọn dưới năm mươi ba tựa sách phải được làm từ tất cả các nhà sử học quan trọng hiện còn ở Constantinopolis; do đó ông hy vọng việc thu thập trong một phạm vi dễ quản lý hơn những phần có giá trị nhất của mỗi tác giả.... Trong năm mươi ba tựa sách vào các đoạn trích được chia, chỉ có sáu là còn tồn tại gồm: _de Virtutibus et Vitiis; de Sententiis; de Insidiis; de Strategematis; de Legationibus Gentium ad Romanos; de Legationibus Romanorum ad Gentes_. Các tựa sách chỉ khoảng một nửa bốn mươi bảy phần còn lại là còn được biết đến.

Gia đình

Với hoàng hậu Helena Lekapene, con gái của Hoàng đế Romanos I, Konstantinos VII có với nhau mấy người con gồm:

  • Leon, mất lúc nhỏ.
  • Romanos II. *Zoe. Gửi đến một tu viện.
  • Theodora, người kết hôn với Hoàng đế Ioannes  I Tzimiskes. Agatha. Gửi đến một tu viện. Theophano. Gửi đến một tu viện. *Anna. Gửi đến một tu viện.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Konstantinos VII** **_Porphyrogennetos_** hay **_Porphyrogenitus_**, nghĩa là "Dòng dõi vương giả" (; 2 tháng 9, 905 – 9 tháng 9, 959), là vị Hoàng đế thứ tư thuộc vương triều Makedonia của Đế quốc Đông
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
**Konstantinos X Doukas** (, _Kōnstantinos X Doukas_) (1006 – 1067) là vị Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1059 đến 1067. ## Triều đại Konstantinos Doukas là con trai của Andronikos Doukas, một nhà
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Romanos II** (Hy Lạp: Ρωμανός Β΄, _Rōmanos II_) (938 – 15 tháng 3, 963) là Hoàng đế Đông La Mã. Ông kế vị phụ hoàng Konstantinos VII vào năm 959 ở tuổi hai mươi mốt
**Leon VI**, danh xưng **Hiền nhân** hay **Triết gia** (, _Leōn VI ho Sophos_, 19 tháng 9, 866 – 11 tháng 5, 912), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 886 đến 912. Là
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
nhỏ|Đoạn mô tả về cuộc [[Vây hãm Chandax|vây hãm thành Chandax của Phokas, mùa đông năm 960-961]] **Nikephoros II Phokas** (, _Nikēphoros II Phōkas_) (khoảng 912 – 10–11 tháng 12, 969) là Hoàng đế Đông
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Cassius Dio** hay **Dio Cassius** (; ) là chính khách và nhà sử học La Mã gốc Hy Lạp. Ông đã xuất bản 80 tập của bộ sử về thời La Mã cổ đại, bắt
**Vương quốc Bagratuni** hay **Armenia thời nhà Bagratuni** (tiếng Armenia cổ: , chuyển tự _Bagratuneats Hayastan_) (các tên khác _Vương quốc Ani_, _Armenia Bagratuni_, _Vương quốc Shirak_) là một nhà nước phong kiến Armenia tồn
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Mikhael III** (, _Mikhaēl III_; 19 tháng 1, 840 – 23/24 tháng 9, 867) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 842 đến 867. Mikhael III là thành viên thứ ba và cuối cùng
phải|nhỏ|277x277px| [[Mátyás Corvin, vua Hungary]] **Bibliotheca Corviniana** là một trong những thư viện danh tiếng bậc nhất trong thời kỳ Phục Hưng. Thư viện được thành lập bởi vua Mátyás Corvin của Hungary, tại lâu
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Ras** (; ), được biết đến trong lịch sử Serbia hiện đại với tên gọi **Stari Ras** (, có nghĩa là **Ras cổ**) là một pháo đài thời Trung Cổ nằm ở vùng lân cận
thumb|[[Stradun (đường)|Stradun, đường chính của Dubrovnik]] thumb|Phố cổ nhìn từ trên cao thumb|right|upright|[[Lâu đài Rector]] thumb|right|[[Tường thành Dubrovnik|Tháp Minčeta]] thumbnail|Cảnh phố cổ **Dubrovnik** (; tên cũ ) là một thành phố của Croatia nằm trên
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
**Malchus thành Philadelphia** (; ? – ?) là một nhà sử học Đông La Mã sống vào thế kỷ 5. Theo bộ _Suda_, Malchus hay Mekselina (một trong số bảy cây cột kèo nằm trên
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
**Voivoda** (tạm dịch nghĩa là _Đốc quân_ hoặc _Thống quân_), còn được viết là **voievod**, **vojvoda** hoặc **wojewoda** tùy theo ngôn ngữ, là một danh hiệu biểu thị một quân phiệt hoặc lãnh chúa ở
**Thánh Ônga** (Tiếng Slav Nhà thờ: , Tiếng Bắc Âu cổ: __; sinh ra k. 890–925 tại Pskov – mất năm 969 tại Kiev) là một nhiếp chính của Rus' Kiev cho con trai Sviatoslav
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Mikhael Psellos** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ψελλός, _Mikhaēl Psellos_) là một tu sĩ, nhà văn, triết gia, chính trị gia và nhà sử học Đông La Mã gốc Hy Lạp. Ông sinh vào năm 1017 hoặc
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
**Manuel II Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (Hy Lạp: Μανουήλ Β΄ Παλαιολόγος, _Manouēl II Palaiologos_) (27 tháng 6, 1350 – 21 tháng 7, 1425) là vị Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1391 đến 1425. ##
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
**Georgios I** hay **Georg I** (, _Geōrgios A', Vasileús tōn Ellēnōn_; 24 tháng 12 năm 1845 – 18 tháng 3 năm 1913) là một vị vua của người Hy Lạp, trị vì từ năm 1863
**Trận Dyrrhachium** (ngày nay gần Durrës ở Albania) là một trận đánh diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 1081, giữa quân đội Đông La Mã do Hoàng đế Alexios I Komnenos chỉ huy
**Hậu duệ vương thất của Victoria** (Nữ vương Liên hiệp Anh) ** và Christian IX** (Quốc vương Đan Mạch) hiện tại vị trên ngai vàng của Bỉ, Đan Mạch, Luxembourg, Na Uy, Tây Ban Nha,
thumb|Vương thất Đan Mạch tại sinh nhật lần thứ 70 của [[Margrethe II của Đan Mạch|Nữ vương Margrethe II (nay Thái thượng vương Margrethe), ngày 16 tháng 4 năm 2010. _Từ trái sang: (hàng trước)_
**Christian IX** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1818 – 29 tháng 1 năm 1906) là Vua của Vương quốc Đan Mạch từ năm 1863 cho đến khi ông qua đời vào năm 1906. Từ
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Anna Komnene** (, _Ánna Komnēnḗ_; 1 tháng 12, 1083 – 1153), thường được Latinh hóa thành **Anna Comnena**, là một công chúa, học giả, bác sĩ, quản lý bệnh viện và nhà sử học Đông
**Justinianos II** (, Ioustinianos II, ) (669 – 11 tháng 12, 711), họ là **_Rhinotmetos_** hoặc **_Rhinotmetus_** (, "mũi rọc"), là vị Hoàng đế Đông La Mã cuối cùng của Vương triều Herakleios trị vì
**Eirene Doukaina** hay **Ducaena** (, _Eirēnē Doukaina_; – 19 tháng 2, 1138) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Alexios I Komnenos, và là mẹ của hoàng đế Ioannes II Komnenos và nữ sử
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Ađrianô I** hoặc **Hadrianô I ** (Tiếng Latinh: **Adrianus I**) là vị giáo hoàng thứ 95 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Nikephoros III Botaneiates** (, khoảng 1002 – 10 tháng 12, 1081), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1078 đến 1081. Ông thuộc về một gia tộc tự xưng là hậu duệ
Ngày **18 tháng 9** là ngày thứ 261 (262 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 104 ngày trong năm. ## Sự kiện * 96 – Sau khi Hoàng đế Domitianus bị ám sát, Thượng
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 8 tháng 1: Vua Bảo Đại chính thức kế vị * 11 tháng 1: Trương Tác Lâm tuyên bố 3 tỉnh đông bắc Trung Quốc độc lập
**Nikephoros Bryennios Già** (), là một vị tướng Đông La Mã đã cố gắng tự lập làm hoàng đế vào cuối thế kỷ 11. Người đương thời đều xem ông là nhà chiến thuật giỏi
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng