✨Hoàng Xuân Lãm

Hoàng Xuân Lãm

Hoàng Xuân Lãm (1928 – 2017) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Liên quân được Quốc gia Việt Nam mở ra ở Cao nguyên miền Trung Việt Nam, tốt nghiệp ông được chọn về Binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ ngành chuyên môn của mình từ chức vụ chỉ huy cấp Chi đội tuần tự theo hệ thống chỉ huy đến cấp Trung đoàn. Tuy nhiên, ông chỉ phục vụ trong Binh chủng Thiết giáp một thời gian ngắn (1952 – 1959). Sau đó ông được chuyển sang Tư lệnh đơn vị Bộ binh. Sau cùng là Tư lệnh một Quân đoàn danh tiếng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau chiến trận "Mùa hè đỏ lửa" năm 1972 ông bị cách chức và thuyên chuyển về Bộ Quốc phòng giữ chức vụ không quan trọng.

Tiếu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 10 năm 1928 tại Quảng Trị trong một gia đình gia giáo có truyền thống hiếu học. Thiếu thời ông theo cấp Tiểu học ở Quảng Trị. Lên Trung học, ông được gia đình cho vào Huế học tại trường Quốc học. Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó được bổ dụng về Quảng Trị làm giáo viên Tiểu học cho đến ngày gia nhập quân đội.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên của Quốc gia Việt Nam, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 48/201.368. Theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950. Ngày 25 tháng 6 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chuyển quân số về Chi đoàn 4 Thám thính Xa với chức vụ Chi đội phó, đồn trú ở Cao nguyên Trung phần. Ngày 1 tháng 10 năm 1952, ông được cử theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông của Quân đội Pháp tại Cap Saint Jacquues (Vũng Tàu) trong thời gian 6 tháng. Ngày 1 tháng 4 năm 1953, mãn khóa học căn bản ông trở về Chi đoàn 4. Ngày 25 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Chi đội trưởng thuộc trong Chi đoàn 4. Cuối năm, ông tiếp tục được cử đi du học khóa cao cấp Thiết giáp tại trường Kỵ binh Saumur, Pháp. Giữa năm 1954 mãn khóa về nước. Sau Hiệp định Genève (20 tháng 7 năm 1954), ông được thăng cấp Đại úy giữ chức vụ Chi đoàn trưởng Chi đoàn 4 tham gia Chiến dịch chống quân phiến loạn Bình Xuyên.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Tháng 10 năm 1955, ngay sau nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, chuyển biên chế sang Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh thay thế Thiếu tá Vĩnh Lộc

Đầu tháng 5 năm 1957, ông được lệnh bàn giao Trung đoàn 1 Thiết giáp lại cho Đại úy Dương Hiếu Nghĩa. Cuối tháng 5, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp tại trại Trần Hưng Đạo thay thế Trung tá Dương Ngọc Lắm. Cuối năm 1958, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Thiết giáp lại cho Thiếu tá Nguyễn Văn Thiện để đi du học khóa Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ (khóa 1959-1). Giữa năm 1959 mãn khóa về nước, ông được cử làm Trưởng khối Huấn luyện tại trường Đại học Quân sự ở Sài Gòn.

Tháng 2 năm 1963, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh (Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại Thị xã Ban Mê Thuột) thay thế Đại tá Lê Quang Trọng.. Cấp phó cho ông ở thời điểm này là Đại tá Nguyễn Xuân Thịnh. Người trợ lý, tham mưu cho ông trong suốt thời gian làm chỉ huy tại quân đoàn I là Trung tá Trần Hữu Phước

Ngày 11 tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Ngày 14 tháng 10 cùng năm nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 23 lại cho Đại tá Tư lệnh phó Nguyễn Xuân Thịnh. Ngay ngày hôm sau chuyển ra Vùng 1 Chiến thuật, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh thay thế Đại tá Nguyễn Thanh Sằng, Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1965 ông được thăng Thiếu tướng tại nhiệm.

Cuối tháng 5 năm 1966, ông được kiêm Tư lệnh Quân đoàn I thay thế Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Tháng 11 cùng năm bàn giao Sư đoàn 2 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Toàn để chính thức giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật. Tháng 7 năm 1967 ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Tháng 2 năm 1971, ông được cử giữ chức Tư lệnh cuộc Hành quân Lam Sơn 719 Đầu tháng 5 năm 1972, sau vụ thất thủ và để mất Quảng Trị, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn I lại cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng để về Trung ương nhận nhiệm vụ khác. Giữa tháng 5 cùng năm, ông được cử làm Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng Trần Thiện Khiêm và ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975.

1975

Trưa ngày 29 tháng 4, ông đem theo gia đình, từ Vũng Tàu di tản ra khơi trên Cơ xưởng Hạm Vĩnh Long HQ-802. Hạm trưởng là Hải quân Trung tá Vũ Quốc Công. Sau đó, ông và gia đình được sang định cư tại Thành phố Davis, miền Bắc Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 2 tháng 5 năm 2017, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 89 tuổi.

Gia đình

Thân phụ: Cụ Hoàng Trọng Thuần Thân mẫu: Cụ Hồ Thị Đạt *Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Lê Hồng :Ông bà có năm người con: 1 trai, 4 gái
Hoàng Nguyễn Phương Liên, Hoàng Nguyễn Phương Lan, Hoàng Nguyễn Phương Dung, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Nguyễn Phương Nam.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Xuân Lãm** (1928 – 2017) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường
**Hoàng Xuân Du** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình
**Hoàng Xuân Tửu** (5 tháng 5 năm 1928 ## Tiểu sử Hoàng Xuân Tửu sinh ngày 5 tháng 5 năm 1928 tại tỉnh Quảng Trị, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương. Năm 1944, ông gia
**Hoàng Xuân Hãn** (1908 – 1996) là một nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam đồng thời là một kỹ sư, nhà toán học. Ông là
**Hoàng Xuân Nhị** (1914–1990) là một nhà giáo, nhà văn, dịch giả Việt Nam. ## Tiểu sử Hoàng Xuân Nhị sinh năm 1914, quê ở làng Yên Hồ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, nay
**Hoàng Xuân Vinh** (sinh ngày 6 tháng 10 năm 1974) là một vận động viên bắn súng người Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Hoàng Xuân Chiến** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1961) là một tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông hiện là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt
**Hoàng Xuân Hành** (1866? – 1941/1942), biệt hiệu là **Giám Hành**, là một chí sĩ trong phong trào Đông Du và khởi nghĩa Yên Thế trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Hoàng Xuân
**Hoàng Xuân Sính** (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1933) là một nữ chính khách, nhà quản lý giáo dục, nhà toán học, giáo sư và nhà giáo Nhân dân người Việt Nam. Bà là
**Trương Hoàng Xuân** (1939 – 3 tháng 5 năm 2025) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông được biết đến nhiều qua các sáng tác "Bạc trắng lửa
**Hoàng Xuân Việt** tên thật là **Nguyễn Tùng Nhân** (sinh 13 tháng 8 năm 1928 tại Vĩnh Thành, Bến Tre, mất ngày 20 tháng 7 năm 2014) là một học giả, nhà văn, dịch giả,
**Đinh Xuân Lâm** (4 tháng 2 năm 1925 – 25 tháng 1 năm 2017) là một trong những người góp công đầu xây dựng Bộ môn Lịch sử cận – hiện đại Việt Nam, Phó Chủ
**Viêm Hoàng Xuân Thu** (), là một tạp chí hàng tháng phát hành tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thường được xem là một tờ báo có khuynh hướng tự do và cải
**Hoàng Xuân Hiệp** (hay **Hợp**) (chữ Hán: 黃春洽; 1825-?) là một nhà khoa bảng Việt Nam. Ông đỗ Thám hoa khoa thi năm Tân Hợi (1851). ## Thân thế sự nghiệp Hoàng Xuân Hợp sinh
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Cát Lâm** (, ), là một tỉnh ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Cát Lâm là tỉnh đông thứ hai mươi mốt về số dân, đứng thứ hai mươi tư
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Thọ Xuân** là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý Huyện lỵ huyện Thọ Xuân (thị trấn Thọ Xuân) - cách thành phố Thanh Hóa (đi theo quốc
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
nhỏ|350x350px| Trái đất trong [[Chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời|quỹ đạo của nó quanh Mặt trời làm cho Mặt trời xuất hiện trên thiên cầu di chuyển dọc theo đường Hoàng Đạo (màu
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Mục Hoàng Hoa** (chữ Hán: 穆黃花) là hoàng hậu thứ ba của Bắc Tề Hậu Chủ Cao Vĩ trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Mục Hoàng Hoa còn có tên khác Mục Xá
**Hoằng Hóa** là một huyện đồng bằng ven biển cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hoằng Hóa nằm ở phía đông của tỉnh Thanh Hóa, nằm cách thành phố Thanh
phải|nhỏ|Phiên bản bia Vĩnh phúc ở Lam Kinh, [[Thanh Hóa, dựng lại ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội]] **Khu di tích lịch sử Lam Kinh** cách thành phố Thanh Hóa 50 km về
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Lâm Quang Thi** (1932 - 19 tháng 01 năm 2021) nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ
**Nguyễn Xuân Thịnh** (1929 - 1998) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Chính
**Hồ Xuân Hương** (cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX) (chữ Hán: 胡春香) là một thi sĩ người Việt Nam sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后, ?-563), không rõ tên thật, thụy hiệu: **Tuyên Tĩnh hoàng hậu** (宣靜皇后), là hoàng hậu của Lương Tuyên Đế (梁宣帝) Tiêu Sát (萧詧) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
MÔ TẢ SẢN PHẨMCUSHION SULWHASOO BẢN MÙA XUÂN MỚI NHẤT NĂM 2020#order_ko_cọc_ko_huỷ CUSHION SULWHASOO BẢN MÙA XUÂN MỚI NHẤT NĂM 2020 vừa lên kệ tháng 2 này. Bao năm dùng và bán Sulwashoo chưa bao
MÔ TẢ SẢN PHẨMCUSHION SULWHASOO BẢN MÙA XUÂN MỚI NHẤT NĂM 2020#order_ko_cọc_ko_huỷ CUSHION SULWHASOO BẢN MÙA XUÂN MỚI NHẤT NĂM 2020 vừa lên kệ tháng 2 này. Bao năm dùng và bán Sulwashoo chưa bao
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
80% NÁM SẠM MỜ ĐI CHỈ SAU 4 TUẦN SỬ DỤNG CAO NÁM HOÀNG CUNG Đây là kết quả nghiên cứu từ 100 khách hàng của Magic Skin!Mờ nám không khó nếu bạn lựa chọn
**Tổ Ấn - Mật Hoằng** (祖印 - 密弘, gọi tắt là **Mật Hoằng**, 1735 - 1835), là thiền sư Việt Nam, thuộc Lâm Tế tông, đời thứ 36. ## Tiểu sử và đạo nghiệp Thiền
**Nguyễn Xuân** (1919–?), bí danh **Ta**, là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư, Quyền Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
**Dương Ngọc Lắm** (1924 - 1973) nguyên là cựu tướng lĩnh Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Viễn Đông do Quân
MÔ TẢ SẢN PHẨM❤️❤️❤️HUYENVICKY XIN CAM KẾT SẢN PHẨM CHÍNH HÃNG 100%!!!❤️❤️❤️CHÚ Ý: QUÝ KHÁCH ĐƯỢC MỞ HỘP KIỂM TRA HÀNG KHI NHẬN SẢN PHẨM. Phấn nước Cushion SULWHASOO Phiên bản mùa xuân mới nhất
MÔ TẢ SẢN PHẨM❤️❤️❤️HUYENVICKY XIN CAM KẾT SẢN PHẨM CHÍNH HÃNG 100%!!!❤️❤️❤️CHÚ Ý: QUÝ KHÁCH ĐƯỢC MỞ HỘP KIỂM TRA HÀNG KHI NHẬN SẢN PHẨM. Phấn nước Cushion SULWHASOO Phiên bản mùa xuân mới nhất
nhỏ|phải|Trang bản in sách [[Đại Nam thực lục viết về việc vua Gia Long cho thành lập Đội Hoàng Sa để thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa vào năm