✨Hách Liên Bột Bột

Hách Liên Bột Bột

Hách Liên Bột Bột (, tiếng Hán trung đại: quảng vận: ; 381–425), tên lúc chào đời là Lưu Bột Bột (劉勃勃/佛佛) , gọi theo thụy hiệu là Hạ Vũ Liệt Đế (夏武烈帝), là hoàng đế khai quốc của nước nước Hạ thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường bị coi là một người cai trị vô cùng tàn ác, ông đã phụ bạc tất cả các ân nhân của mình, và giết nhiều người một cách quá mức. Ông cho xây kinh đô uy nghi có tên Thống Vạn (統萬, nay thuộc Du Lâm, Thiểm Tây) và khiến cho việc bao vây thành trở nên khó khăn, thậm chí ngay cả trăm năm sau vào thời Ngũ Đại Thập Quốc. (Ngụy thư chép tên của ông là Hách Liên Khuất Kiết/Khuất Cái (赫連屈孑/屈丐), đều thể hiện sự miệt thị mà các hoàng đế của Bắc Ngụy là Minh Nguyên đế/Thái Vũ đế dành cho ông.)

Trước khi lên ngôi

Lưu Bột Bột sinh năm 381, khi đó phụ thân Lưu Vệ Thần (劉衛辰) của ông là một tộc trưởng Hung Nô quan trọng và là chư hầu của Tiền Tần. Không rõ mẫu thân của ông là chính thất hay là thê thiếp của Lưu Vệ Thần. Ông là một trong những người con trai nhỏ tuổi nhất của Lưu Vệ Thần. Sau khi hoàng đế Phù Kiên đại bại trong trận Phì Thủy vào năm 383, Tiền Tần sụp đổ vì các cuộc nổi loạn, Lưu Vệ Thần lúc này đang cai quản phần lãnh thổ của khu vực Nội Mông phía nam Hoàng Hà và cực bắc Thiểm Tây, và mặc dù chịu làm chư hầu của cả Hậu Tần và Tây Yên thì ông ta vẫn cai trị lãnh địa của mình một cách độc lập. Tuy nhiên, năm 391, Lưu Vệ Thần cử một người con trai tên là Lưu Trực Lực Đê (劉直力鞮) đi đánh nước Bắc Ngụy của Thác Bạt Khuê, và Thác Bạt Khuê không chỉ đánh bại Lưu Trực Lực Đê, mà còn băng qua Hoàng Hà để tiến đánh đại bản doanh của Lưu Vệ Thần tại Duyệt Bạt (悅拔, nay thuộc Ordos, Nội Mông), chiếm được nơi này và buộc Lưu Vệ Thần và Lưu Trực Lực Đê phải chạy trốn. Ngày hôm sau, Lưu Vệ Thần bị một thuộc hạ giết chết, còn Lưu Trực Lực Đê thì bị bắt. Thác Bạt Khuê chiếm lấy lãnh địa cùng người dân của Lưu Vệ Thần và thảm sát gia tộc họ Lưu.

Tuy nhiên, Lưu Bột Bột đã thoát được và chạy trốn đến bộ lạc Tiết Can (薛干), và tộc trưởng Thái Tất Phục (太悉伏) đã từ chối giao nộp ông bất chấp lời yêu cầu của Bắc Ngụy. Thay vào đó, Thái Tất Phục đã đưa Lưu Bột Bột đến chỗ một tộc trưởng Hung Nô là Cao Bình công Một Dịch Can (沒奕干), một chư hầu của Hậu Tần, và Một Dịch Can không chỉ cho Lưu Bột Bột nương náu mà còn gả một người con gái cho Lưu Bột Bột. Lưu Bột Bột từ thời điểm này trở đi trở nên phụ thuộc nhiều vào nhạc phụ. (Trong lúc đó, năm 393, do Thái Tất Phục đã từ chối đưa Lưu Bột Bột cho mình, Thác Bạt Khuê đã tiến đánh Thái và thảm sát người dân trong bộ lạc của ông ta, còn bản thân Thái thì chạy thoát đến Hậu Tần.) Sử sách không ghi nhiều về cuộc sống của Lưu Bột Bột trong các năm sau đó. Năm 402, em trai của Thác Bạt Khuê là Thác Bạt Tuân (拓拔遵) đã tiến đánh đại bản doanh của Một Dịch Can tại Cao Bình (高平, nay thuộc Cố Nguyên, Ninh Hạ), và Một Dịch Can buộc phải chạy trốn đến Hậu Tần, bỏ rơi người dân trong bộ lạc, mặc dù vậy, sau đó Hậu Tần đã tái chiếm Cao Bình và trao lại thành cho Một Dịch Căn.

Một lúc nào đó trước năm 407, Lưu Bột Bột, được biết đến với vẻ tuấn tú, có tài ăn nói, hoạt bát, và thông minh, đã nhận được sự chú ý của hoàng đế Diêu Hưng của Hậu Tần. Diêu Hưng rất ấn tượng với khả năng của Lưu Bột Bột khi ông ta gặp Lưu Bột Bột và muốn phong cho Lưu Bột Bột làm một trọng tướng để chống lại Bắc Ngụy. Tuy nhiên, em trai của Diêu Hưng là Diêu Ung (姚邕), đã lên tiếng chống lại, ông ta cho rằng Lưu Bột Bột không đáng tin cậy, nói rằng:

: Lưu Bột Bột kiêu ngạo với bề trên và những người lớn tuổi hơn hắn. Hắn ta tàn ác với các thuộc hạ và cộng sự của mình. Hắn ta cũng tham lam, xảo trá, thiếu tình thương, và không chú ý đến tình bằng hữu. Hắn ta thay đổi thái độ của mình một cách nhanh chóng và cũng từ bỏ nhanh chóng mọi thứ. Nếu hoàng huynh quá tin tưởng và ủng hộ người này, hắn ta chắc chắn sẽ gây ra tai họa.

Với lời khuyên bảo của Diêu Ung, Diêu Hưng ban đầu không ban cho Lưu Bột Bột một nhiệm vụ nào, song cuối cùng vẫn bị thuyết phục bởi tài năng của Lưu nên đã phong cho ông làm một tướng với tước công, cho ông trấn giữ quận Sóc Phương (朔方, cũng thuộc Ordos ngày nay).

Năm 407, sau khi phải hứng chịu một số thất bại trước Bắc Ngụy, Diêu Hưng quyết định thực thi hòa bình với Bắc Ngụy. Khi hay tin, Lưu Bột Bột trở nên giận dữ vì phụ thân của ông đã bị Bắc Ngụy giết chết, và ông đã lên kế hoạch nổi loạn. Do đó, ông đã thu giữ những con ngựa mà hãn Uất Cửu Lư Xã Lôn (郁久閭社崙) của Nhu Nhiên triều cống cho Diêu Hưng, và sau đó tấn công bất ngờ nhạc phụ Một Dịch Can, chiếm lấy Cao Bình và giết chết Một, đoạt lấy quân lính của Một. Sau đó, Lưu Bột Bột xưng là một hậu duệ của Hạ Vũ, người sáng lập nhà Hạ, và đặt tên nước là Hạ. Ông xưng tước hiệu "Thiên vương".

Thời kỳ đầu trị vì

Mặc dù Lưu Bột Bột căm thù Bắc Ngụy, ông lại tập trung các nỗ lực của mình để phá hoại Hậu Tần, liên tục quấy rối các lãnh thổ phía bắc của Hậu Tần và làm hao mòn tài lực của nước này. Vì thế, ông không sống tại kinh thành mà di chuyển cùng với các kị binh, liên tục đến các thành của Hậu Tần để cướp bóc.

Cũng trong năm 407, Lưu Bột Bột đã tìm cách kết hôn với một con gái của vua Thốc Phát Nục Đàn của Nam Lương, song Thốc Phát Nục Đàn đã từ chối. Trong giận dữ, Lưu Bột Bột đã mở một cuộc tấn công nhằm trừng phạt Nam Lương nhưng sau đó đã rút quân. Thốc Phát Nục Đàn đã đuổi theo quân Hạ và tin tưởng rằng mình vượt trội so với Lưu Bột Bột nên đã bất cẩn trong các hành đọng quân sự. Lưu Bột Bột đã đưa Thốc Phát Nục Đàn đến mộ hẻm núi và sau đó chặn lối ra bằng băng và các xe ngựa, rối sau đó phục kích và đánh bại quân Nam Lương, có ước chừng từ 60% đến 70% các quan và tướng chính yếu của Nam Lương đã chết trong trận này. Thốc Phát Nục Đàn thoát thân.

Năm 408, Diêu Hưng cử tướng Tề Nan (齊難) mở một chiến dịch lớn để tiến đánh Lưu Bột Bột. Lưu Bột Bột ban đầu đã rút lui để khiến cho Tề Nam tin rằng ông sợ Tề, và Lưu Bột Bột đã phản công bất ngờ và bắt được Tề. Sau đó, nhiều lãnh thổ của Hậu Tần đã rơi vào tay Hạ.

Năm 409, Diêu Hưng đich thân dẫn quân đi đánh Lưu Bột Bột, song khi đến Nhị Thành (貳城, nay thuộc Diên An, Thiểm Tây), ông ta đã gần như rơi vào bẫy của Lưu Bột Bột, và trốn thoát sau khi quân Hậu Tần phải chịu thương vương lớn. Thất bại này đã khiến Diêu Hưng phải hủy bỏ một sứ mệnh do tướng Diêu Cường (姚強) chỉ huy để cứu Nam Yên khỏi bị Đông Tấn tiêu diệt. (Không có viện trợ của Hậu Tần, Nam Yên đã bị tiêu diệt vào năm 410.) Trong vài năm sau đó, quân Hạ và Hậu Tần chiến đấu liên tục, song đều không đạt được chiến thắng quyết định, song Hậu Tần phải chịu tổn hạo tài vật nặng hơn Hạ, và kết quả là Nam Lương và Tây Tần đã không còn sẵn lòng làm chư hầu của Hậu Tần như trước. Năm 412, khi vua Khất Phục Càn Quy của Tây Tần bị cháu trai Khất Phục Công Phủ (乞伏公府) ám sát, Lưu Bột Bột đã tính đến việc tấn công Tây Tần bất chấp việc nước này là đồng minh, song vì nghe theo ý kiến của quân sư Vương Mãi Đức (王買德) nên ông đã không làm như vậy.

Năm 413, Lưu Bột Bột cuối cùng đã quyết tâm xây dựng một kinh thành. Ông đã ủy thác cho một viên tướng tàn bạo tên là Sất Can A Lợi (叱干阿利) làm kiến trúc sư trưởng của kinh thành. Ông đặt tên kinh thành là Thống Vạn, với ý nghĩa là thống nhất Trung Quốc và là chúa tể của một vạn nước. Sất Can A Lợi đã ra lệnh rằng đất được sử dụng để xây thành phải được nung, vì như vậy thành sẽ cứng và khó có thể bị tấn công, và ông ta thường kiểm tra các bức tường trong thời gian xây dựng. Lưu Bột Bột đích thân ra các quy định tàn nhẫn khi sản xuất vũ khí và áo giáp, ví dụ như ông ta sẽ cho bắn tên vào áo giáp; nếu tên có thể xuyên thủng áo giáp thì người thợ rèn ra áo giáp sẽ bị xử tử, còn nếu mũi tên không thể xuyên qua áo giáp thì người thợ rèn sản xuất ra đầu mũi tên sẽ bị xử tử. Tuy nhiên, có lẽ vì vậy mà Thống Vạn đã trở thành một thành có khả năng phòng thủ ở mức cao, và các vũ khí và áo giáp mà ông có đều có chất lượng cực tốt.

Cũng trong năm 413, Lưu Bột Bột tin rằng cần đổi họ của mình do tổ tiên của ông đã lấy họ Lưu của hoàng thất nhà Hán vì tin rằng một trong số các nữ tổ tiên của mình là một công chúa nhà Hán, song Lưu Bột Bột cho rằng điều này không đúng, do đó ông đã cải họ thành Hách Liên. Ông cũng lệnh cho các quý tộc đổi họ thành Thiết Phạt (鐵伐).

Năm 414, Hách Liên Bột Bột lập vợ mình, Lương phu nhân làm "Thiên vương hậu." (Không rõ về số phận của Một phu nhân sau khi Lưu Bột Bột giết chết Một Dịch Can.) Ông lập con trai Hách Liên Hội (赫連璝) làm thái tử, và phong tước công cho các con trai khác.

Năm 415, Hách Liên Bột Bột đã gia nhập liên minh với Thư Cừ Mông Tốn, vua nước Bắc Lương.

Năm 416, Hậu Tần bị tướng Lưu Dụ của Đông Tấn tấn công, Hách Liên Bột Bột tin rằng Hậu Tần sẽ bị Đông Tấn tiêu diệt, song Đông Tấn sẽ không dễ dáng để giữ vùng Quan Trung. Do đó, ông đã tăng cường các cuộc tấn công vào Hậu Tần, và chuẩn bị để đợi thời cơ Hậu Tần diệt vong nhằm chiếm được thêm lãnh thổ. Đến khi Hậu Tần gần sụp đổ, Hách Liên Bột Bột đã chiếm được lãnh thổ phía tây của nó, trung tâm là An Định (安定, nay thuộc Bình Lương, Cam Túc), và sau đó chuẩn bị cho một cuộc đối đầu cuối cùng với quân Đông Tấn (Đông Tấn đã diệt Hậu Tần vào năm 417 và chiếm được kinh thành Trường An).

Vào mùa đông năm 417, Lưu Dụ có ý định muốn đoạt lấy ngai vàng Đông Tấn nên đã để Trường An lại cho người con trai mới 11 tuổi tên là Lưu Nghĩa Chân (劉義真) trấn thủ. Lưu Dụ cũng để lại một số tướng có thể giúp sức cho Lưu Nghĩa Chân, các tướng này tuy vậy lại mâu thuẫn với nhau và cuối cùng sát hại lẫn nhau, còn Lưu Nghĩa Chân tin rằng người phụ tá chính tên là Vương Tu (王脩), có ý nổi loạn nên đã cho giết chết Vương. Trong khi đó, Hách Liên Bột Bột đã cử thái tử Hách Liên Hội cũng một con trai khác là Hách Liên Xương, và Vương Mãi Đức chỉ huy một đội quân tiến về phía nam, ban đầu không giao chiến với quân Đông Tấn mà cô lập Trường An với lãnh thổ còn lại của Đông Tấn, nhiệm vụ này trở nên dễ dàng hơn khi Lưu Nghĩa Chân lệnh cho quân Đông Tấn ở gần Trường An đều phải đến Trường An. Lưu Dụ hay tin đã cử tướng Chu Linh Thạch (朱齡石) đến thay thế Lưu Nghĩa Chân và triệu hồi Lưu Nghĩa Chân về kinh, song ngay sau khi Lưu Nghĩa Chân và quân của người này rời khỏi Trường An, họ đã bị Hách Liên Hội chặn lại và đánh bại. Lưu Nghĩa Chân đã chạy thoát song phần lớn quân Đông Tấn đã bị bắt. Hách Liên Bột Bột xếp chồng các thủ cấp của lính Đông Tấn đã chết thành một khối, trông giống như một ngọn đồi. Trong khi đó, người dân Trường An vốn đã sẵn tức giận vì quân của Lưu Nghĩa Chân đã cướp phá thành phố trước khi rút đi, họ đã trục xuất Chu Linh Thạch, Hách Liên Bột Bột vì thế đã có thể tiến vào Trường An một cách dễ dàng. Hách Liên Bột Bột sau đó xưng đế.

Thời kỳ trị vì cuối

Hầu hết các quan của Hách Liện Bột Bột đề xuất rằng nên dời đô đến Trường An, song ông lại tin rằng Thông Vạn có vị trí tốt hơn để phòng thủ chống lại Bắc Ngụy, nên đã từ chối và vẫn định đô tại Thông Vạn, cho thái tử Hách Liên Hội đi trấn giữ Trường An.

Chiến dịch chống lại Đông Tấn đã thể hiện tài năng của Hách Liên Bột Bột, song vào thời điểm này, ông cũng ngày càng trở nên tàn nhẫn. Ông được các sử gia mô tả:

: Ông là người kiêu ngạo và tàn ác, đối xử với dân như cỏ dại. Ông thường leo lên tháp cùng với cung tên và mũi tên, và bất cứ khi nào ông đột nhiên mất lòng tin, không ưa hay giận dữ một ai đó, ông sẽ đích thân giết chết người đó. Nếu bất kỳ quan lại nào đó nhìn ông chằm chằm, ông sẽ khoét mắt họ ra. Nếu ai cười một cách khinh suất thì môi của họ sẽ bị dao cắt ra thành từng miếng. Bất cứ ai dám đưa ra một ý kiến trái chiều thì đầu tiên họ sẽ bị cắt lưỡi và sau đó sẽ bị cắt đầu.

Năm 424, không rõ vì lý do gì, Hách Liên Bột Bột đã phế truất ngôi vị thái tử của Hách Liên Hội và lập một con trai khác là Tửu Tuyền công Hách Liên Luân (赫連倫) làm thái tử. Khi hay tin, Hách Liên Hội đã dẫn quân về phía bắc từ Trường An và tấn công Hách Liên Luân. Quân hai bên gặp nhau ở Cao Bình và Hách Liên Hội đã đánh bại và giết chết Hách Liên Luân. Tuy nhiên, một người con trai khác của Hách Liên Bột Bột là Hách Liên Xương sau đó đã tiến hành tấn công bất ngờ Hách Liên Hội, giết chết người này và đoạt lấy binh lính của ông ta, đưa họ trở lại Thông Vạn. Hách Liên Bột Bột hài lòng và lập Hách Liên Xương làm thái tử.

Vào mùa hè năm 425, Hách Liên Bột Bột qua đời. Hách Liên Xương kế vị ông.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hách Liên Bột Bột** (, tiếng Hán trung đại: quảng vận: ; 381–425), tên lúc chào đời là **Lưu Bột Bột** (劉勃勃/佛佛) , gọi theo thụy hiệu là **Hạ Vũ Liệt Đế** (夏武烈帝), là hoàng
**Hách Liên Xương** () (?-434), tên tự **Hoàn Quốc** (還國), tên khác là **Hách Liên Chiết** (赫連折), là một hoàng đế của nước Hạ vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Ông là người kế
**Tiên Ti** () là một dân tộc du mục ở phía bắc Trung Quốc, hậu duệ của người Sơn Nhung. Người Sơn Nhung bị liên quân Tề Yên tiêu diệt vào năm 660 TCN buộc
**Hách Liên Định** () (?-432), biệt danh **Trực Phần** (直獖), là hoàng đế cuối cùng của nước Hạ vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số
**Hạ** là một quốc gia thời Ngũ Hồ Thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc do Hách Liên Bột Bột (赫连勃勃), thủ lĩnh bộ lạc Thiết Phất của người Hung Nô, chiếm vùng bắc
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Thái Vũ Hách Liên Hoàng hậu** (chữ Hán: 太武赫連皇后; ? - 453) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, hoàng đế Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Sinh thời bà
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Mao Tu Chi** (chữ Hán: 毛修之; 375-446) là tướng thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ cả chính quyền cai trị phía nam và phía bắc. ## Thời Đông Tấn
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Diêu Hưng** () (366–416), tên tự **Tử Lược** (子略), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Tần Văn Hoàn Đế** ((後)秦文桓帝), là một hoàng đế của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Khoái Ân** (), tự **Đạo Ân**, người huyện Thừa, Lan Lăng , là tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Theo Lưu Dụ Khi Lưu Dụ chinh thảo quân khởi nghĩa
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Vương Trấn Ác** (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Phùng Bạt** () (?-430), tên tự **Văn Khởi** (文起), biệt danh **Khất Trực Phạt** (乞直伐), gọi theo thụy hiệu là **(Bắc) Yên Văn Thành Đế** ((北)燕文成帝), là một hoàng đế của nước Bắc Yên thời
**Nam Lương** (397 – 414) là một nước trong thời Ngũ Hồ Thập lục quốc do Thốc Phát Ô Cô người tộc Tiên Ti ở Hà Tây kiến lập ở khu vực Thanh Hải. ##
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Thế Tổ** (chữ Hán: 世祖) là miếu hiệu của một số vị quân chủ. Những vị vua có miếu hiệu Thế Tổ thường là người khai sáng triều đại, hoặc là trung hưng triều đại,
thumb|281x281px|Dấu ấn lịch sử tại [[Dinh tổng thống (Nam Kinh)|Dinh tổng thống Nam Kinh nhắc đến chữ "Thiên Vương" trong lời tựa ()]] **Thiên vương** () là tước hiêu của Trung Quốc dành cho các
**Ô Hoàn** (, còn viết là 乌丸) hay **Cổ Hoàn** (古丸) là tên gọi của một nhóm sắc tộc du cư cổ đại tại miền bắc Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại, trong khu
**Thẩm Điền Tử** (chữ Hán: 沈田子, 383 – 418), tên tự là **Kính Quang**, người Vũ Khang, tướng lĩnh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em trai của Thẩm Uyên Tử.
**Hạ Thế Tổ** (_chữ Hán_:夏世祖) có thể là: ## Danh sách *Hạ Thế Tổ Thiếu Khang (truy tôn) *Hạ Thế Tổ Hách Liên Bột Bột thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc *Hạ Thế Tổ
**Hạ Thái Tổ** (_chữ Hán_:夏太祖) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Hạ Thái Tổ Lưu Vệ Thần, thủ lĩnh hệ chi Thiết Phất của Nam Hung Nô thời Ngũ
**Hạ Vũ Liệt Đế** (_chữ Hán_:夏武烈帝) có thể là những vị quân chủ sau: ## Danh sách *Hạ Vũ Liệt Đế Hách Liên Bột Bột thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc *Hạ Vũ Liệt
**Bạt Bạt Tung** (chữ Hán: 拔拔嵩) hay **Trưởng Tôn Tung** (长孙嵩, 358 – 437 ), tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. Ông có họ hàng gần với hoàng thất Bắc Ngụy, hộ
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Xiển Bột** hay **Xiển Ngộ** là một nhân vật dân gian được cho là có thật, tên là **Nguyễn Xiển**, sống ở cuối thời phong kiến của Việt Nam, tại làng Hoằng Bột, nay là
**Diệc Liên Chân Bát Lạt** (tiếng Hoa: 亦怜真八剌; ? - ?) là một Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ sáu của triều
**Khứ Ti** (), ước đoán sinh vào cuối thời Đông Hán, sống qua thời Tam Quốc, là thủ lĩnh Thiết Phất bộ, một chi hệ của Hung Nô vào thời Tây Tấn, là Hữu Hiền
**Ngũ Hồ Thập lục quốc** (), gọi tắt là **Thập lục quốc**, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận
**Hắc Long Giang** () là một tỉnh phía đông bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Hắc Long Giang là tỉnh đông thứ mười bảy về số dân, đứng thứ hai mươi ba về kinh tế
**Khất Phục Sí Bàn** () (?-428), gọi theo thụy hiệu là **(Tây) Tần Văn Chiêu Vương** ((西)秦文昭王), là vị vua thứ 3 nước Tây Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
**Dương Cát Nỗ** (, phiên âm: Yangginu, ; ? - 1584) là con trai thứ của Thái Xử và là Diệp Hách Bối lặc (Đông thành). Dương Cát Nỗ là nhạc phụ của Thanh Thái
**Thanh Giai Nỗ** (, phiên âm tiếng Mãn: Cinggiyanu, ; ? - 1584), con trai trưởng của Thái Xử, là Bối lặc của Diệp Hách (Tây thành). Tổ tiên vốn là Thổ Mặc Đặc thị
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
Thời kỳ 386-394 **Hậu Tần** (384 – 417) là một quốc gia thời Ngũ Hồ Thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc của người tộc Khương, tồn tại từ năm 384 đến năm 417.
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Lưu Phúc Thông** (, 1320-1367), người Tây Lưu Doanh, Dĩnh châu, phủ Nhữ Ninh, thủ lĩnh trên thực tế của phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền bắc Trung Quốc vào cuối đời Nguyên.
**Đạt Hề Cân** (, 369 – 448) hay **Hề Cân**, người quận Đại, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Đạt Hề là một trong 10 họ của bộ tộc Thác Bạt,
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Trận sông Marne lần thứ nhất** là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Đức và liên quân Anh - Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất từ ngày 5 tháng 9 cho
**Trận Kunersdorf**, còn viết là **Trận Cunnersdorf** với bản thân ông cũng chỉ thoát nạn trong gang tấc. biểu dương sâu sắc sức mạnh của quân Nga. Ngoài ra, thắng lợi này cũng chứng tỏ
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Holi** (phát âm: /ˈhoʊliː/; chữ phạn: होली _Holī_) là một lễ hội mùa xuân của người theo đạo Hindu
**Tần vương** (秦王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và chư hầu vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Tần – nhà Tần. ## Xuân Thu–Chiến Quốc Các quân chủ nước
**Trận Talas** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Abbasid (Đại Thực) và nhà Đường vào năm 751. Vào tháng 7 năm đó, quân đội hai bên giao chiến tại sông Đát La Tư
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm