✨Hạ Hầu Mậu

Hạ Hầu Mậu

Hạ Hầu Mậu (chữ Hán: 夏侯楙; bính âm: Xihou Mao), tự Tử Lâm, là một vị tướng lĩnh và quan chức của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc. Hạ Hầu Mậu là con thứ hai của Hạ Hầu Đôn và sau này lấy con gái của Tào Tháo vì vậy được gọi là Hạ Hầu phò mã.

Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhân vật Hạ Hầu Mậu được nhà văn mô tả là đã chỉ huy quân Ngụy tham gia cuộc chiến chống lại sự tấn công của quân Thục do Gia Cát Lượng chỉ huy.

Thân thế

Hạ Hầu Mậu là con thứ của đại tướng Ngụy là Hạ Hầu Đôn, được phong là Liệt hầu. Khi trước, Tào Tháo đem con gái mình là Thanh Hà công chúa gả cho Hạ Hầu Mậu. Hạ Hầu Mậu từng trải các chức vụ Thị trung thượng thư, An Đông Trấn Tây tướng quân, được ban Giả tiết.

Hạ Hầu Mậu lúc còn nhỏ chơi thân với Tào Phi, nên khi Phi lên ngôi đã cho Hạ Hầu Mậu làm An Tây tướng quân, được cầm cờ tiết, nối chức Hạ Hầu Uyên làm Đô đốc Quan Trung. Năm 228 (năm Thái Hoà thứ hai) khi Ngụy Minh Đế Tào Duệ dẫn quân chống lại quân Thục Hán, Tào Duệ liền triệu gọi Mậu về triều, phong cho chức Thượng thư.

Khi Gia Cát Lượng tiến hành Bắc phạt lần thứ nhất, Ngụy Diên biết Hạ Hầu Mậu giữ ở Trường An liền xin cho chỉ huy một nhánh kỳ binh bao gồm 5.000 quân tinh nhuệ cộng với 5.000 quân vận tải, bí mật đi hướng Tý Ngọ tập kích vào Trường An, cho rằng chỉ 10 ngày có thể đến được thành. Diên cho rằng "Hạ Hầu Mậu còn ít tuổi, là con rể của chủ, hèn nhát mà vô mưu, vì vậy nếu thấy kỳ binh Thục bất ngờ tập kích tất gióng ngựa bơi thuyền bỏ chạy", và như vậy quân Thục Hán có thể dễ dàng chiếm được Trường An và vùng đất từ Hàm Dương về phía Tây. Tuy vậy Gia Cát Lượng không nghe theo vì cho rằng kế hoạch của Diên quá mạo hiểm.

:Các nhà sử học như Dịch Trung Thiên và Trần Văn Đức đều cho rằng Gia Cát Lượng rất có lý khi từ chối kế của Ngụy Diên vì nó có quá nhiều rủi ro. Thứ nhất: Hạ Hầu Mậu chưa chắc sẽ hèn nhát bỏ chạy khỏi Trường An, mà dù Mậu bỏ chạy thật thì các thuộc tướng của Mậu vẫn có thể ở lại phòng thủ, quân của Diên chỉ có 1 vạn thì rất khó công phá được tường thành vững chắc của Trường An. Thứ hai: danh tướng Quách Hoài ở gần đó có thể sớm đến chi viện cho Mậu, trong khi quân Thục của Gia Cát Lượng sẽ phải vượt qua đường núi hiểm trở xa xôi, khó mà đến kịp để chi viện cho Diên. Thứ ba: việc hành quân gấp gáp theo đường Tý Ngọ hiểm trở sẽ khiến binh tướng hao tổn sức lực, lúc tới nơi thì số quân vừa ít ỏi vừa mỏi mệt của Ngụy Diên lại phải đối mặt với cả chục vạn quân Ngụy, nên rất dễ bị tiêu diệt hoàn toàn. Thứ 4: Việc giữ bí mật cuộc hành quân của 1 vạn quân qua lãnh thổ của địch là rất khó, đạo quân của Diên rất dễ bị lộ và quân Ngụy sẽ kịp đề phòng trước, nên không còn yếu tố bất ngờ nữa. Kế của Ngụy Diên nếu thành công sẽ mang lại thắng lợi lớn, nhưng tính rủi ro rất cao và tỷ lệ thành công rất thấp, nên không được Gia Cát Lượng chấp nhận. :Trên thực tế, ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, vua Ngụy là Tào Duệ đã nhanh chóng đích thân tới Trường An chỉ huy, thu lại binh quyền của Hạ Hầu Mậu và đưa Mậu về kinh. Diễn biến này cho thấy suy đoán của Ngụy Diên rằng "Hạ Hầu Mậu sẽ bỏ chạy, Trường An sẽ bị bỏ trống" là sai lầm. Nếu Gia Cát Lượng chấp thuận kế của Ngụy Diên thì hẳn là quân Thục Hán đã đại bại.

Hạ Hầu Mậu được coi là người không có vũ lược, nhưng khéo chơi bời. Thời Hạ Hầu Mậu ở Quan Trung, có nuôi rất nhiều ca kỹ nàng hầu, công chúa bởi thế bất hoà với Mậu. Hai anh em của Mậu là Hạ Hầu Tử Tang (夏侯子臧) và Hạ Hầu Tử Giang (夏侯子江) vì kiêu ngạo lộng quyền mà hay bị Mậu trách mắng cũng đem lòng oán hận Mậu. Vì vậy Tử Tang và Tử Giang bắt tay với công chúa hặc tội Mậu trước Tào Duệ. Duệ tức giận, hạ ngục Mậu định xử chém. Tuy nhiên có Đoạn Mặc (段默) cố sức can gián nên Tào Duệ quyết định tra xét kỹ lại, cuối cùng biết Mậu bị oan liền thả ra, phục chức Thượng thư lệnh.

Sau đó, Mậu lại được bổ nhiệm làm Trấn Đông Tướng quân (鎮東將軍). Không rõ Mậu mất năm nào.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Thân thế

Trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa, Hạ Hầu Mậu được La Quán Trung miêu tả khá tiêu cực, theo đó Hạ Hầu Mậu được giới thiệu là con Hạ Hầu Uyên, có tính khí hấpbủn xỉn lắm. Từ thuở nhỏ làm con nuôi Hạ Hầu Đôn. Về sau Hạ Hầu Uyên bị Hoàng Trung giết mất nên Tào Tháo thương xót mới gả con gái là Thanh Hà công chúa cho Hạ Hầu Mậu làm phò mã. Bởi thế, trong triều ai cũng kính trọng. Tuy Mậu được giữ binh quyền, nhưng chưa hề ra trận bao giờ.

Vương Lãng cũng cho rằng: Hạ Hầu phò mã, chưa ra trận bao giờ, không nên giao cho việc lớn. Ngụy Diên thì cho rằng: Hạ Hầu Mậu là con nhà phú quý, ngu si không biết gì. Gia Cát Lượng thì so sánh Hạ Hầu Mậu như một con vịt trong khi Khương Duy là một con phượng hoàng. Hay như: Hạ Hầu Mậu là người trẻ tuổi, vô mưu chưa trải việc trận mạc bao giờ, thấy quân tình bối rối, không biết nghĩ thế nào. Tuy vậy, ông cũng được La Quán Trung tô vẽ với một ngoại hình khá bắt mắt như Hạ Hầu Mậu đội mũ chỏm vàng, cưỡi ngựa trắng, tay cầm thanh đao lớn, đứng dưới cửa cờ.

Chiến trận

Khi Gia Cát Lượng xuất lĩnh hơn ba mươi vạn quân đóng ở Hán Trung, sai Triệu Vân, Đặng Chi làm tiên phong, kéo vào biên cảnh. Hạ Hầu Mậu nói: Cha tôi chết ở Hán Trung, thù sâu này còn chưa báo được. Nay quân Thục phạm vào cõi, tôi xin dẫn mãnh tướng bản bộ và xin bệ hạ cấp thêm cho quân Quan Tây để ra phá Thục, trên hết sức vì nước, dưới báo thù cho cha dẫu muôn chết cũng không ân hận gì nữa!.

Khi ấy thấy Hạ Hầu Mậu xin đi đánh, Tào Duệ bèn phong cho Mậu làm đại đô đốc, điều quân mã các xứ Quan Tây ra cự giặc. Hạ Hầu Mậu hùng hồn phát biểu: : Ta từ thuở nhỏ theo cha, luyện tập thao lược, tinh hiểu binh pháp, sao ngươi dám khinh ta ít tuổi? Nếu không bắt sống được Gia Cát Lượng, ta thề rằng không về trông thấy thiên tử nữa?

Sau đó, Hạ Hầu Mậu từ biệt Ngụy chủ, đi gấp đến Trường An, điều vát hai chục vạn quân mã các xứ Quan Tây để chống nhau với Khổng Minh. Hạ Hầu Mậu ở Trường An, tụ tập các đạo quân mã. Đại tướng ở Tây Lương là Hàn Đức, dẫn tám vạn quân Tây Khương ra mắt Hạ Hầu Mậu. Hạ Hầu Mậu trọng thưởng và cho làm tiên phong dẫn bốn con đến nghênh chiến. Kết cục Hàn Đức và con bị Triệu Vân đánh bại.

Hạ Hầu Mậu cũng có công lao khi nghe lời quân sư dụ Triệu Vân vào phục kích và vây khốn ông này. Tuy nhiên Triệu Vân sau đó đã được giải cứu. Sau này khi quân Thục dồn dập tấn công, liền dẫn hơn một trăm tướng giỏi, chạy trốn ra quận Nam An. Quân sĩ không có chủ tướng, cũng tan vỡ hết cả.Hạ Hầu Mậu trốn ra Nam An, thâu đêm đuổi theo. Mậu vào được thành, sai đóng chặt cửa lại, canh giữ cẩn thận.

Sau đó Khổng Minh đã dùng nhiều kế bắt sống Hạ Hầu Mậu, sau đó lại thả ông này để dùng mẹo thu phục danh tướng Khương Duy đồng thời phát triển lực lượng đoạt luôn ba quận của quân Ngụy. Hạ Hầu phò mã thua mất ba quận, chạy trốn ra Khương Trung.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hạ Hầu Mậu** (chữ Hán: 夏侯楙; bính âm: Xihou Mao), tự **Tử Lâm**, là một vị tướng lĩnh và quan chức của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Hạ Hầu Đôn** (chữ Hán: 夏侯惇; 155–220), tên tự là **Nguyên Nhượng** (元讓) là công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh họ của Hạ
**Hạ Hầu** (chữ Hán: 夏侯, Bính âm: Xiàhóu) là một họ người Hoa. Hạ Hầu là một trong 60 họ kép (gồm hai chữ) trong danh sách _Bách gia tính_. ## Nguồn gốc Thời Xuân
**Hạ calci máu** (tiếng Anh: _hypocalcemia_) được định nghĩa là nồng độ calci huyết tương toàn phần thấp hơn 2,2 mmol/l (hay 8,8 mg/dL). Một cách chính xác hơn, _hạ calci máu được định nghĩa khi nồng
**Hạ Hầu Ân** hay Hạ Hầu Liêm, tự là **Tử Vân**. (chữ Hán: 夏侯恩; bính âm: Xiahou En; 167-208) là nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La
**Hạ Hầu Kiệt** (chữ Hán:夏侯傑, bính âm: Xiahou Jie, ???-208) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Nhân vật này là
**Hạ kali máu** (**Hypokalemia** hoặc **hypokalaemia**) là tình trạng cơ thể không giữ được lượng kali đủ để duy trì hoạt động bình thường, và có thể dẫn đến tử vong. ## Triệu chứng Hạ
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
Đông Trùng Hạ Thảo Quả Thể Sấy Thăng Hoa OGAFA 1.Công dụng của Đông trùng hạ thảo-Chống oxy hóa, kích thích hệ miễn dịch-Kháng viêm, tăng cường hệ thống miễn dịch-Kháng tế bào ung thư-Đông
I. CÔNG DỤNG - Xổ độc gan, hạ men gan, tiêu độc cơ thể- Hỗ trợ điều trị bệnh đại tràng- Hạ mỡ máu- Trị trứng đầy bụng, ăn không tiêu- Giúp hạ huyết áp,
MÔ TẢ SẢN PHẨMSon kem lỳ Chu Lipstick chứa các thành phần như: Dầu dưỡng Organic, sáp ong và màu khoáng thiên nhiên nên son rất an toàn cho môi, độ dưỡng tốt. Có thể
MÔ TẢ SẢN PHẨMSon kem lỳ Chu Lipstick chứa các thành phần như: Dầu dưỡng Organic, sáp ong và màu khoáng thiên nhiên nên son rất an toàn cho môi, độ dưỡng tốt. Có thể
Mặc dù là một thương hiệu mới toanh nhưng son Chu Lipstick chỉ mất đúng một tháng sau khi ra mắt đã lấy lòng tất cả các chị em nào nhìn thấy nó. Với thiết
China Máy đo nồng độ oxy trong máu Pulse Oximeter LK87 (đo SpO2) Máy đo nồng độ oxy trong máu Pulse Oximeter LK87 thiết kế nhỏ gọn, dễ sử dụng, không xâm lấn vô cùng
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Lý Mậu Trinh** (, 856–17 tháng 5 năm 924), nguyên danh **Tống Văn Thông** (), tên tự **Chính Thần** (正臣), là người cai trị duy nhất của nước Kỳ thời Ngũ Đại Thập Quốc trong
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
Bản đồ khí hậu đơn giản hoá của châu Phi: Hạ Saharan gồm vùng [[Sahel và Sừng châu Phi khô cằn ở phía bắc (màu vàng), các savanna nhiệt đới (lục sáng) và các rừng
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, _Hầu Cảnh chi loạn_) là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Lương của hàng tướng Hầu Cảnh đến từ nhà Đông Ngụy, diễn ra từ tháng 8
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hậu Nghệ** (chữ Hán: 后羿), hoặc **Đại Nghệ** (大羿) hay **Nghệ** (羿), là một nhân vật truyền thuyết cổ đại Trung Hoa, được hình tượng hóa là một xạ thủ vĩ đại, gắn liền với
**Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu** (chữ Hán: 武宣卞皇后; 30 tháng 12, 159 – 9 tháng 7, 230), còn gọi là **Biện phu nhân** (卞夫人), là kế thê của Ngụy Vũ Đế Tào Tháo, người đặt
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng