✨Giáo hoàng Urbanô II

Giáo hoàng Urbanô II

Urbanô II (Latinh: Urbanus II) là người kế nhiệm Giáo hoàng Victor III và là vị giáo hoàng thứ 159 của Giáo hội Công giáo.

Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1087 và ở ngôi Giáo hoàng trong 11 năm 4 tháng 11 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 12 tháng 3 năm 1088 và qua đời ngày 29 tháng 7 năm 1099.

Urbanô kêu gọi vào ngày 27 tháng 11 năm 1095 một cuộc thập tự chinh. Đó là Cuộc thập tự chinh thứ nhất, mục đích là để giải phóng các lãnh thổ Kitô (trong số đó có Jerusalem) khỏi sự thống trị của người Hồi giáo. Ông được Giáo hoàng Lêô XIII phong chân phước vào ngày 14 tháng 7 năm 1881.

Trước khi trở thành giáo hoàng

Giáo hoàng Urbanus sinh tại Lagery, Champagne gần Reims tại Pháp vào khoảng năm 1035 với tên thật là Odon hay Eudes de Lagery hay de Châtillon.

Eudes là học sinh ở Reims của phụ trách trưởng trường đạo là thánh Brunô, người sáng lập tương lai dồng Charteux.

Trước tiên, ông làm tổng phó tế ở Auxerre, sau đó làm đan sĩ ở Cluny năm 1070. Ông là cựu bề trên Cluny là người kế vị Đức Grêgôriô VII đã theo đuổi công việc canh tân của vị tiền nhiệm, dựa trên lý tưởng đan viện và sức mạnh của các dòng lớn.

Grêgôriô VII gọi ông đến Rôma. Năm 1078, ông trở thành hồng y Giám mục Ostia. Đặc sứ tại Pháp và Đức, ông thúc đẩy cuộc canh tân của Grêgôriô ở đó và chủ tọa nhiều công đồng.

Giáo hoàng

Đấu tranh với Henry IV

Sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ông phải đương đầu với sự ly khai của phe Hoàng đế. Ông ra vạ tuyệt thông Henry IV và phản Giáo hoàng Clement III, ông kiên quyết đấu tranh cho đến khi Clement bỏ Rôma lui về Lombardy. Ông đã giành được sự giúp đỡ của Conrad, con của Henry IV.

Ngày 1 tháng 11 năm 1088, ông đã ra một sắc lệnh nói rõ và mở rộng đặc quyền của dòng Cluny. Urbanus II cũng lập ra tập tục ngày "hưu chiến vì Chúa", để có thời gian chôn những người chết trong cuộc chiến. Ông cực lực lên án việc trao chức do thế quyền và sự mạn thánh.

Thập tự chinh lần thứ nhất

Đức Urbanô II đã triệu tập Công Đồng Clermont năm 1095 để thành lập Thập tự chinh lần thứ nhất, nhằm giải thoát các thánh địa của Đông Phương khỏi sự kiểm soát của người Hồi Giáo.

Gregory VII là người đã hô hào đi "cứu" Mồ Thánh. Nhưng vì ông bận rộn với Henry IV, nên Urbanô II mới là người khởi sự Binh Thánh Giá. Ngày 27.11.1095, Urbano II tại phiên họp tôn giáo khai diễn ở Clermont phía nam nước Pháp đã lên tiếng kêu gọi thế giới công giáo đứng lên cứu Đất thánh. nhỏ|Giáo hoàng Urban II kêu gọi thập tự chinh thứ nhất tại [[Công đồng Clermont.]] Urban II đã tác động các tầng lớp tín đồ cuồng nhiệt tại địa phương này. Ông công kích sự tàn bạo của các lãnh chúa trong nước cũng như sự bạo hành của Muslim (đạo Hồi) đồng thời ca ngợi những thành tích vinh quang của người Pháp rồi sau đó kêu gọi các lãnh chúa, kỵ sĩ và tất cả những người nông dan ở đây hãy cầm vũ khí lên đường chiến đấu để cứu lấy thánh địa Jerusalem, ông gọi đây là cuộc thánh chiến "Thập tự giá chống trăng lưỡi liềm" và những ai đáp ứng lời kêu gọi này tham gia cuộc thánh chiến sẽ được "chuộc tội" nếu chết trong chiến đấu sẽ được lên thiên đàng.

Urbano II trình bày về những đau khổ do áp bức của người Sarrasins dành cho các tín hữu Đông phương. Trong bài diễn từ đạo đức, ông cảm xúc và khóc lên khi gợi đến việc người ta dày xéo dưới chân Giêrusalem và Thánh Địa mà xưa đức Giêsu và các thân hữu đã sinh sống.

Ông kêu mời những người tây phương cùng bạn bè, hãy tôn trọng lời thề bảo vệ hòa bình, hãy mang dấu Thánh Giá trên vai phải. Ông kêu mời họ, "những chiến sĩ ưu tú hãy cho dân ngoại biết khả năng chiến đấu của mình". "không những vì phần rỗi mình, mà còn vị sự sống còn của Mẹ Giáo hội". Người ta tin tưởng rằng sự đặt chân lên đường đi Jesusalem với thánh giá bằng vải trên vai hoặc sau lưng và trước ngực, chính là bước đường chắc chắn vào nước trời.

Mặc dù Đức Urbanô đã ngăn cấm tất cả các động lực bất chính khi tham dự thập tự quân, như vì vinh dự hoặc lợi lộc thế tục. Nhưng chắc chắn ông đã không nhìn thấy tương lai của các cuộc thập tự chinh. Lời kêu gọi của ông đã có một sức mạnh thật ghê gớm: người đã có gia đình, người chưa bao giờ chiến đấu, nam phụ lão ấu, tất cả đều ao ước được đền tội. Chính đều này đã khiến cho nhiều người đã bị chết đói dọc đường hay bị giết chết trên chiến trường.

Mùa xuân năm 1096 có hơn sáu vạn nông dân phá sản ở đông bắc Pháp và phía tây nước Đức tổ chức thành một đội ngũ khổng lồ men theo sông Rhin và sông Danube sang phía đông. Họ thiếu thốn lương thục phải ăn xin dọc đường. Trong đó có những phần tử lưu manh đã thừa cơ cướp bóc. Đội ngũ này suốt dọc đường đi thường bị tập kích nên một số đông đã chết. Khi họ đến vùng tiểu Á thì bị người Seljuk đánh bại một cách dễ dàng, chỉ còn chừng 3000 người chạy được đến Constantinopolis.

Urbanô II qua đời ngày 29 tháng 7 năm 1099. Giáo hoàng Lêô XIII phong chân phước cho ông năm 1881.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Urbanô II** (Latinh: **Urbanus II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Victor III và là vị giáo hoàng thứ 159 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
**Urbanô IV** (Latinh: **Urbanus IV**) là vị giáo hoàng thứ 182 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1261 và ở ngôi Giáo
**Lời tiên tri về các Giáo hoàng** là một loạt 112 cụm từ ngắn gọn, ẩn dụ trong tiếng Latinh, nhằm dự đoán các vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma (cùng với
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Clement VII **Robert Geneva** (1342-16 tháng 9 năm 1394) được bầu làm giáo hoàng đối lập với tước hiệu là Clement VII bởi các vị hồng y người Pháp phản đối
**Nicôla V** (Latinh: **Nicolaus V**) là vị Giáo hoàng thứ 207 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1447 và ở ngôi
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Nhà Farnese** (, also , ) là một hoàng tộc có ảnh hưởng ở Bán đảo Ý thời Phục hưng. Các nhà cai trị của Công quốc Parma và Công quốc Castro đều có nguồn
**Jan II Kazimierz Waza** (tiếng Đức: Johann II. Kasimir Wasa; tiếng Litva: Jonas Kazimieras Vaza; ngày 22 tháng 3 năm 1609 - 16 tháng 12 năm 1672) là Vua Ba Lan và Công tước của
**Gia đình Borgia** ( , ; tiếng Tây Ban Nha và ; ) từng là một gia đình quý tộc gốc Tây Ban Nha - Aragon, đã vuơn tới đỉnh cao quyền lực ở nước
**Công đồng Lateran II** do giáo hoàng Innôcentê II triệu tập năm 1139. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus. Công đồng Lateran II
**Francis Arinze** (sinh 1932) là một Hồng y người Nigeria của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên đảm trách vai trò Tổng trưởng Thánh bộ Phụng tự và kỉ luật Bí tích của Giáo
**Nhà thờ chính tòa Thánh Andrê của Bordeaux** () là một nhà thờ Công giáo La Mã dành riêng cho Thánh Andrê nằm tại thành phố Bordeaux, Pháp. Đây cũng là trụ sở của Tổng
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galilei** (; phiên âm tiếng Việt: **Ga-li-lê**; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1564 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1642), cũng thường được gọi ngắn gọn là **Galileo**, là
**Gilberto Agustoni** (1922–2017) là một Hồng y người Thụy Sĩ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ Hiệu tòa Ss. Urbano e Lorenzo
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:John_Paul_II_funeral_long_shot.jpg|nhỏ|288x288px|**Các hồng y mặc [[Phẩm phục Công giáo|phẩm phục đỏ trong lễ tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II**]] **Hồng y đoàn**, chính thức là **Hồng y thánh đoàn**, là cơ quan của tất cả các
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Carolus Magnus** (có khả năng sinh ngày 2 tháng 4 năm 747 hoặc 748 - mất ngày 28 tháng 1 năm 814 tại Aachen, Đức), tiếng Latin, đôi khi được viết là **Karolus Magnus;** tiếng
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Cuộc Thập tự chinh năm 1101** là ba chiến dịch riêng biệt được tổ chức vào năm 1100 và 1101 do hậu quả từ thành công của cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Cuộc Thập
**Cláudio Hummes**, tên đầy đủ là **Cláudio Aury Affonso Hummes, O.F.M.** (8 tháng 8 năm 1934 – 4 tháng 7 năm 2022) là một Hồng y người Brazil của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông
Ngày **27 tháng 11** là ngày thứ 331 (332 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 34 ngày trong năm. ## Sự kiện *25 – Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú vào Lạc Dương, định
**Cuộc Thập tự chinh lần thứ IX**, đôi khi còn được tính gộp vào cuộc Thập tự chinh lần thứ tám, Thường được coi là chiến dịch lớn cuối cùng thời trung cổ đến vùng
phải|nhỏ| Canh thức đêm vọng Lễ Tha thứ tại nhà nguyện Portiuncula (tháng 8, 2013) **Portiuncula** là tên của một nhà nguyện Công giáo tọa lạc bên trong Vương cung thánh đường Nữ Vương các
nhỏ|phải|Isabel của Aragón và Sicilia **Isabel của Aragón và Sicilia** hay còn được gọi là **Thánh Elizabeth nước Bồ Đào Nha** (1271 - 04 tháng 7 năm 1336) là Vương hậu nước Bồ Đào Nha
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Władysław IV Vasa** (; ; ; hoặc _Ladislaus IV Vasa_; 9 tháng 6 năm 1595 - 20 tháng 5 năm 1648) là một hoàng tử Ba Lan của dòng họ Vasa. Ông trị vì như
**Vương quốc Hai Sicilie** (tiếng Ý: _Regno delle Due Sicilie_) là một nhà nước ở miền Nam Bán đảo Ý, tồn tại từ năm 1816 đến năm 1861 dưới sự kiểm soát của một nhánh
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
Ngày **19 tháng 12** là ngày thứ 353 (354 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 12 ngày trong năm. ## Sự kiện *211 – Đồng hoàng đế La Mã Publius Septimius Geta bị anh
**Ferdinando I de' Medici, Đại công tước xứ Toscana** (30 tháng 7, 1549 – 3 tháng 2 năm 1609) là Đại Công tước xứ Toscana từ năm 1587 đến năm 1609, kế vị người anh
**Trận Hattin** diễn ra vào ngày thứ 7 mồng 4 tháng 7 năm 1187, giữa Vương quốc Thập tự Jerusalem và quân đội nhà Ayyub Ai Cập. Quân đội Hồi giáo của Saladin đã bắt
**Trung tâm lịch sử thành Roma** (tiếng Ý: _Centro storico di Roma_) nằm bên trong tường thành Aurelianus hay **thành La Mã cổ đại** là khoảng không gian đô thị đặc biệt, đại diện cho
**Công quốc Urbino** là một nhà nước có chủ quyền ở miền bắc Ý. Các lãnh chúa đầu tiên của Urbino là Nhà Montefeltro vốn được Hoàng đế Frederick II phong tước hiệu bá tước
**Các tài sản của Tòa thánh** được quy định bởi Hiệp ước Lateran năm 1929 ký với Vương quốc Ý. Mặc dù các tài sản này nằm trong lãnh thổ Ý nhưng lại là tài
**Nhà thờ Chúa giáng sinh của Đức Trinh Nữ Maria ở Příbor** (tiếng Séc: _Kostel Narození Panny Marie v Příbor_) là một nhà thờ giáo xứ Công giáo La Mã có từ thời Trung cổ,