✨Lời tiên tri về các Giáo hoàng

Lời tiên tri về các Giáo hoàng

Lời tiên tri về các Giáo hoàng là một loạt 112 cụm từ ngắn gọn, ẩn dụ trong tiếng Latinh, nhằm dự đoán các vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma (cùng với một số ngụy giáo hoàng), bắt đầu bằng Giáo hoàng Celestine II. Các lời tiên tri bị cáo buộc lần đầu tiên được xuất bản bởi tu sĩ dòng Biển Đức Arnold Wion năm 1595. Wion lại mô tả những lời tiên tri này có nguồn gốc từ Thánh Malakhi, nguyên Tổng giám mục của Armagh, Ireland.

Với mô tả rất chính xác về các vị giáo hoàng vào khoảng năm 1590 và thiếu sự chính xác của các vị giáo hoàng sau đó, các sử gia thường kết luận rằng những lời tiên đoán bị cáo buộc là bị ngụy tạo ngay trước khi chúng được xuất bản. Một số nhà thần học trong Giáo hội Công giáo Rôma đã bác bỏ lời tiên tri này và xem nó là giả mạo. Giáo hội Công giáo không có quan điểm chính thức về các lời tiên tri.

Lời tiên tri này kết thúc với một vị giáo hoàng được xác định là "Phêrô người Rôma", có triều đại được tiên đoán là mang đến sự sụp đổ của thành phố Roma.

Lịch sử

Các lời tiên tri bị cáo buộc lần đầu tiên được xuất bản năm 1595 bởi một tu sĩ dòng Biển Đức tên là Arnold Wion trong tài liệu Lignum Vitæ của ông, đề cập đến nội dung là lịch sử của hình thành dòng Biển Đức. Wion mô tả các lời tiên tri này có nguồn gốc từ Thánh Malakhi, một vị Tổng Giám mục thế kỷ 12 của Armagh. Ông giải thích rằng những lời tiên tri đã không bao giờ được in ra trước đó, nhưng nhiều người mong muốn nhìn thấy chúng. Wion cho xuất bản cả bản nguyên thủy của các lời tiên tri, theo tuyên bố của ông, bao gồm các cụm từ Latinh ngắn, bí ẩn, cũng như cách giải thích áp dụng các tuyên bố cho các vị giáo hoàng trong lịch sử cho đến Giáo hoàng Urban VII (vị giáo hoàng tại vị trong mười ba ngày vào năm 1590), mà Wion quy cho Alphonsus Ciacconius, một tài liệu bác bỏ bởi Claude-François Menestrier được xuất bản vào năm 1694.

Theo một tường thuật được Abbé Cucherat đưa ra vào năm 1871, Malakhi được Giáo Hoàng Innôxentiô Nhị Thế triệu tập tới Rôma vào năm 1139 để nhận hai dây Pallium cho các Tổng giám mục đô thành của Armagh và Cashel. Trong khi ở Rôma, Malakhi có vẻ như đã có một thị kiến về các vị giáo hoàng tương lai và ông đã ghi lại bằng một chuỗi các cụm từ khó hiểu. Bản thảo này sau đó được lưu giữ trong Văn khố Mật vụ của Vatican, và bị lãng quên cho đến khi nó được phát hiện lại vào năm 1590, được cho là đúng lúc cho một Mật nghị Hồng y đang diễn ra vào thời đó.

Thánh Bernard của Clairvaux, một nhà viết tiểu sử hiện đại về Thánh Malakhi đã ghi lại các phép lạ được kể đến của vị thánh, tuy nhiên không đề cập đến các lời tiên tri. Các tài liệu tham khảo sớm nhất đề cập tới họ là vào năm 1587.

Một số nhà sử học đã kết luận rằng những lời tiên tri đó là sự giả mạo vào cuối thế kỷ 16. Tu sĩ và học giả người Tây Ban Nha Benito Jerónimo Feijóo y Montenegro đã viết trong tác phẩm Teatro Crítico Universal (1724-1739), trong một mục gọi là Purported prophecies, ông đề cập đến mức độ chính xác cao của những lời tiên tri chỉ kéo dài đến vị giáo hoàng mà những lời tiên tri này được xuất bản, so với mức cao các dự đoán không chính xác sau ngày đó, là bằng chứng cho thấy các lời tiên tri này đã được tạo ra trước khoảng thời gian xuất bản. Những lời tiên tri và lời giải thích được đưa ra trong sách của Wion tương ứng gần với lịch sử của các vị giáo hoàng năm 1557 của Onofrio Panvinio (bao gồm cả sự sao chép sai lầm của Panvinio), có thể cho thấy những lời tiên tri được viết dựa trên nguồn đó.

Một luận điểm nhằm giải thích việc tạo ra các lời tiên tri, được đưa ra bởi linh mục người Pháp thế kỷ 17 và nhà biên tập Louis Moréri, là những người ủng hộ của Hồng y Girolamo Simoncelli ủng hộ nỗ lực trở thành giáo hoàng của hồng y này trong mật nghị hồng y năm 1590 thay thế Giáo hoàng Urban VII. Trong các lời tiên tri, Giáo hoàng kế vị Urban VII được mô tả với cụm từ "Ex antiquitate Urbis" ("từ thành phố cũ"), và Simoncelli đến từ Orvieto, tiếng Latinh là Urbevetanum, là một thành phố cổ. Moréri và những người khác đề xuất các tiên tri đã được tạo ra trong một nỗ lực không thành công để chứng minh rằng Simoncelli đã được thiên ứng làm giáo hoàng.

Tuy nhiên, việc khám phá ra một dẫn chiếu đến những lời tiên tri trong một bức thư năm 1587 đã làm cho nghi ngờ về lý thuyết này. Trong tài liệu này, đoàn tùy tùng của Hồng y Giovanni Girolamo Albani đã giải thích phương châm "De rore coeli" ("Từ sương của bầu trời") như là sự liên hệ với vị hồng y của họ, dựa trên mối liên hệ giữa "alba" ("bình minh") và Albani, và sương, như một hiện tượng khí quyển buổi sáng điển hình.

Diễn dịch

Việc giải thích các lời tiên tri cho các giáo hoàng trước khi xuất bản do Wion cung cấp bao gồm sự tương ứng chặt chẽ giữa các khẩu hiệu của họ và nơi sinh, tên gia đình, vũ khí cá nhân và các vị trí trước khi trở thành giáo hoàng. Ví dụ, tiên tri đầu tiên đầu tiên, Ex castro Tiberis (từ lâu đài trên Tiber), phù hợp với nơi sinh của Giáo hoàng Celestine II ở Città di Castello, trên dòng sông Tiber.

Những nỗ lực kết nối các lời tiên tri với các vị giáo hoàng lịch sử đã được bầu sau khi xuất bản đã trở nên khó khăn hơn. Ví dụ, Giáo hoàng Clement XIII được nhắc đến trong một lời tiên tri bằng cụm từ Rosa Umbriae (hoa hồng của Umbria), nhưng ông không có nguồn gốc từ Umbria, và liên hệgua62n2 gũi nhất gắn ông với lời tiên tri là ông từng đảm nhận vai trò một quan chức giáo hội trong khoảng thời gian ngắn ngủi tại Rieti, nơi mà vào thời đó là một phần của Umbria.

Một nhà văn lưu ý rằng trong số các dự đoán sau khi xuất bản (sau năm 1595) vẫn còn "một số cụm từ thích hợp đáng ngạc nhiên", đồng thời thêm rằng "tất nhiên là dễ dàng phóng đại tính chính xác của danh sách bằng cách trích dẫn thành công của nó", và "các dự đoán khác không thích hợp với nhau một cách gọn gàng ". Trong số những lời tiên tri thành công được xem xét là "Tôn giáo bị giảm sút" cho Giáo hoàng Biển Đức XV (1914-1922), trong đó có việc giáo hoàng trị vì trong thời gian bao gồm Thế chiến thứ nhất và Cuộc Cách mạng Nga cộng sản vô thần; "Ánh sáng trên bầu trời" cho Giáo hoàng Leo XIII (1878-1903), với một sao chổi trong huy hiệu giáo hoàng của ông; và "Hoa của muôn hoa" cho Giáo hoàng Phaolô VI (1963-1978), với fleur-de-lys trong huy hiệu giáo hoàng của ông.

Peter Bander, Giám đốc về Giáo dục Tôn giáo tại một trường Đại học Cambridge, đã viết vào năm 1969:

M. J. O'Brien, một linh mục Công giáo, người đã sáng tác một chuyên khảo năm 1880 về các lời tiên tri, đã đưa ra một đánh giá khôn khéo hơn:

Phêrô người Rôma

Trong thời gian gần đây một số thông dịch viên của văn học tiên tri đã chú ý đến các lời tiên tri do kết luận của lời tiên tri này sắp xảy ra; nếu danh sách mô tả được so khớp trên cơ sở một-một với danh sách các vị giáo hoàng lịch sử kể từ khi công bố các tiên tri, Giáo hoàng Biển Đức XVI (2005-2013) sẽ tương ứng với phần thứ hai của bản mô tả giáo hoàng, được miêu tả bằng cụm Gloria olivae - Vinh quang của ôliu. Lời tiên tri dài nhất và cuối cùng tiên đoán về Khải Huyền:

Có thể được dịch nghĩa sang tiếng Việt là:

Một số nhà sử học và thông dịch viên về các lời tiên tri lưu ý rằng họ để ngỏ khả năng có những giáo hoàng không được kiệt kê trong danh sách giữa vinh quang của ô liu và vị giáo hoàng cuối cùng, Phêrô người Rôma. Trong Lignum Vitae, dòng In persecutione extrema S.R.E. sedebit. tạo thành một câu và đoạn riêng biệt. Trong khi câu trên thường được đọc như một phần của lời tiên tri Phêrô người Rôma, những người phiên dịch khác coi nó như là một câu riêng biệt, không hoàn chỉnh đề cập rõ ràng đến một hoặc nhiều giáo hoàng giữa tiên đoán vinh quang của ôliuPhêrô người Rôma.

Các giáo hoàng và lời tiên tri tương ứng

Danh sách có thể được chia thành hai phần: phần đầu tiên bao gồm giáo hoàng và một số ngụy giáo hoàng có khoảng thời gian trị vì trước sự xuất hiện của những lời tiên tri vào năm 1590, những nhân vật mà sự kết nối giữa lời tiên tri và vị giáo hoàng đó luôn rõ ràng. Phần còn lại là những lời tiên tri cho những giáo hoàng trị vì sau khi danh sách các tiênt ri này được công bố, có thể thấy sự kết nối giữa lời tiên tri và vị giáo hoàng được đề cập thường gượng gạo hoặc hoàn toàn thiếu chính xác và được xem sử dụng "nghĩa bóng" hoặc một dạng ngụy tạo thông tin sau khi sự việc đã xảy ra.

Danh sách này thường được phân chia giữa lời tiên tri thứ 74 và 75, dựa trên ý nghĩa cốt lõi là các phương châm đã được giải thích bởi Wion và các lời tiên tri chưa được giải nghĩa. Lorenzo Comensoli Antonini chia danh sách giữa các lời tiên tri thứ 73 và 74, dựa trên mối liên hệ lỏng lẻo giữa Giáo hoàng Urbanô VII và phương châm Từ sương trời,và ám chỉ đến lời tiên tri trong một bức thư năm 1587, trước mật nghị Hồng y bầu chọn giáo hoàng Urban VII.

René Thibaut chia danh sách này tại một vị trí khác, giữa lời tiên tri thứ 71 và 72, đồng thời khẳng định rằng có một sự thay đổi về phong cách viết các lời tiên tri tại vị trí này. Ông sử dụng sự khác biệt này để đưa ra quan điểm cho rằng 71 lời tiên tri đầu tiên đã bị giả mạo, trong khi phần còn lại là nguyên thủy của lời tiên tri. Hildebrand Troll cũng đồng tình với quan điểm, lưu ý rằng lời tiên tri từ 72 đến 112 sử dụng một ngôn ngữ tượng trưng liên quan đến đặc điểm của giáo hoàng và triều đại giáo hoàng của mình, trái ngược với các lời tiên tri đầu tiên mang hơi hướng trực nghĩa, tầm thường.

Giáo hoàng và Ngụy giáo hoàng 1143–1590 (trước khi công bố)

Các văn bản trên dòng có nền xám phía dưới đây là văn bản gốc (bao gồm cả dấu câu và chính tả) của bản Lignum Vitae 1595, trong đó bao gồm ba cột song song cho các giáo hoàng trước năm 1590. Cột đầu tiên chứa lời tiên tri, cột thứ hai chứa tên của giáo hoàng hoặc ngụy giáo hoàng đã được đính kèm theo (thỉnh thoảng có xảy ra sai sót), và cột thứ ba chứa lời giải thích lời tiên tri. Có một số dấu hiệu cho thấy cả hai cột lời tiên tri và giải thích được thực hiện bởi một cá nhân thế kỷ 16. Danh sách ban đầu không được đánh số.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lời tiên tri về các Giáo hoàng** là một loạt 112 cụm từ ngắn gọn, ẩn dụ trong tiếng Latinh, nhằm dự đoán các vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma (cùng với
**Lời** **tiên tri tự ứng nghiệm**, **Lời tiên tri tự hiện thực**, **Hiện thực hóa lời tiên đoán** (tiếng Anh: _Self-fulfilling prophecy_) là một sự dự đoán, bằng một cách trực tiếp hay gián tiếp,
**Lời tiên tri** hay **dự ngôn** là một thông điệp được một vị tiên tri tuyên bố là đã được một vị thần truyền đạt cho họ, thường thông qua trạng thái khải tượng. Những
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
nhỏ|phải|Những tiên tri của [[Charles Taze Russell đăng trên Tạp chí _Tháp canh Si-ôn_ (_Zion's Watch Tower_) của giáo phái Chứng nhân Giê-hô-va. Văn Phẩm Tháp Canh (_The Watchtower Bible and Tract Society_) đối với
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII** (Tiếng Latinh: _Ioannes PP. XXIII_; tiếng Ý: _Giovanni XXIII_, tên khai sinh: **Angelo Giuseppe Roncalli**, 25 tháng 11 năm 1881 – 3 tháng 6 năm 1963) là vị Giáo hoàng
**Giáo hoàng Piô XI** (tiếng Latinh: **Pius XI**, tiếng Ý: **Pio XI**) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
thumb|Giáo hoàng Biển Đức XVI năm 2007 **Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị** vào ngày 28 tháng 2 năm 2013 lúc 20:00 CET sau khi ông trực tiếp tuyên bố điều này vào sáng
**Giáo hoàng Phanxicô** ( ; ; ; 17 tháng 12 năm 1936 – 21 tháng 4 năm 2025; tên thật là **Jorge Mario Bergoglio**) là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo
**Tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II** được cử hành vào ngày 8 tháng 4 năm 2005, tức là sáu ngày sau khi ông qua đời vào ngày 2 tháng 4. Tang lễ liên
**Giáo hoàng Biển Đức XV** (tiếng Latinh: _Benedictus PP. XV_, tiếng Ý: _Benedetto XV_; 21 tháng 11 năm 1854 - 22 tháng 1 năm 1922) tên khai sinh: **Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa,** là
**Alexanđê VI** (1 tháng 1 năm 1431 – 18 tháng 8 năm 1503) (Tiếng Latinh: _Alexander VI_, tiếng Tây Ban Nha: _Alejandro VI_, tiếng Catalan: _Alexandre VI_) là vị giáo hoàng thứ 214 của giáo
**Innôcentê III** (Latinh: **Innocens III**) là vị giáo hoàng thứ 176 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1198 và ở ngôi
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Ađrianô I** hoặc **Hadrianô I ** (Tiếng Latinh: **Adrianus I**) là vị giáo hoàng thứ 95 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào
**Gioan VIII** (Latinh: **Joannes VIII**) là vị giáo hoàng thứ 107 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 872 và ở ngôi
nhỏ|257x257px|Lễ đăng quang của giáo hoàng tại Avignon. **Grêgôriô XI** (Latinh: **Gregorius XI**) là vị giáo hoàng thứ 201 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử
Giáo hoàng đối lập Clement III giữa và Hoàng đế Henry IV **Guibert** hay **Wibert Ravenna** (1029 - 08 Tháng 9 năm 1100) là một Giám mục người Ý, Tổng Giám mục của Ravenna, người
**Stêphanô II** hoặc **III** (Tiếng Latinh: _Stephanus II_) là giáo hoàng thứ 92 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được chọn Giáo hoàng vào năm 752. Niên
**Giáo hoàng Urbanô VIII** (Latinh: **Urbanus VIII**) là vị giáo hoàng thứ 235 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1623. Niên giám
**Clêmentê I** (Latinh: _Clemens I_) cũng được gọi là **Clement thành Roma** hay **Clement thuộc Roma** (Latinh: _Clemens Romanus_), để phân biệt với Alessandrinus (?-97). Ông được nhắc đến từ rất sớm là Giám mục
**Chuyến viếng thăm Bắc Mỹ của Giáo hoàng Phanxicô** diễn ra từ ngày 19 đến 27 tháng 9, năm 2015 đến Cuba, Hoa Kỳ và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Ở Hoa Kỳ, nó
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Biển Đức IX** hoặc **Bênêđictô IX** (Latinh: _Benedictus IX_) là giáo hoàng được liệt kê ở vị trí thứ 145, 147, 150 của Giáo hội Công giáo. Triều đại Giáo hoàng này xảy ra nhiều
**Giuliô II** (Latinh: **Julius II**) là vị giáo hoàng thứ 216 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu chọn làm Giáo hoàng năm 1503 và ở
**Grêgôriô III ** (tiếng Latinh: _Gregorius III_) là vị giáo hoàng thứ 90 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Gregorius II. Ông đã được giáo hội suy tôn là
**Giáo hoàng Bônifaciô VIII** (Tiếng La Tinh: **Bonifacius VIII**) là vị giáo hoàng thứ 193 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh Vatican năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
**Thánh Linô** (Tiếng Latinh: _Linus_) là người đầu tiên kế vị Thánh Phêrô, là Giám mục của Rôma và là vị Giáo hoàng thứ hai của Giáo hội Công giáo. Niên giám 2003 ấn định
nhỏ|[[Isaiah, tiên tri quan trọng trong Thánh kinh Cựu ước, tranh thấp bích hoạ ở trần nhà nguyện Sistine do Michelangelo vẽ.]] **Tiên tri** (chữ Anh: _prophet_, chữ Hebrew cổ: נָבִיא, chữ Ả Rập: نبي),
**Gioan XXII** (Latinh: **Joannes XXII**) là vị Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1313 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Urbanô I** (Tiếng La Tinh: _Urbanus I_) là người kế nhiệm giáo hoàng Callixtus I và là vị Giáo hoàng thứ 17 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh
**Grêgôriô IX** (Latinh: **Gregorius IX**) là vị giáo hoàng thứ 178 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1127 (1227?) và ở ngôi
**Gêlasiô I** (Latinh:**Gelasius I**) là vị Giáo hoàng thứ 3 có nguồn gốc Phi châu. Ông là vị Giáo hoàng kế nhiệm Giáo hoàng Felix III và là vị Giáo hoàng thứ 49. Theo niên
**Constantinô** (Tiếng Latinh: _Constantinus_) là vị giáo hoàng thứ 88 của Giáo hội Công giáo. Sau khi giáo hoàng Sisinnius chỉ cai trị trong một thời gian rất ngắn kéo dài 20 ngày Constantinô trở
**Nicôla II** (Latinh: **Nicolau II**) được coi là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IX sau khi Giáo hoàng giả Benedict IX bị truất phế. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc
**Fêlix III** (Tiếng Anh: Felix III) là người kế nhiệm giáo hoàng Simpliciô và là vị Giáo hoàng thứ 48. Ông đã được suy tôn là thánh của nhà thờ công giáo. Theo niên giám
**Sergiô III** (Latinh: _Sergius III_) là vị giáo hoàng thứ 119 của Giáo hội Công giáo. Sau khi Giáo hoàng Lêô V qua đời vào tháng 9 năm 903, ông được đưa lên làm Giáo
**Innôcentê VI** (Latinh: **Innocens VI**) là vị giáo hoàng thứ 199 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1352 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng