✨Charlemagne

Charlemagne

Carolus Magnus (có khả năng sinh ngày 2 tháng 4 năm 747 hoặc 748 - mất ngày 28 tháng 1 năm 814 tại Aachen, Đức), tiếng Latin, đôi khi được viết là Karolus Magnus; tiếng Đức: Karl der Große; tiếng Pháp và tiếng Anh: Charlemagne (phiên âm tiếng Việt: Saclơmanhơ, và sự thống trị của ông cũng ảnh hưởng tới thời kỳ Phục hưng, sự hồi sinh của nghệ thuật, tôn giáo và văn hóa. Vương quốc Frank đạt đến đỉnh cao cực thịnh trong thời kỳ cầm quyền của ông, lãnh thổ của đế quốc Frank lúc này bao gồm hầu hết đất đai của đế quốc La Mã xưa kia, chạy dài từ phía Nam dãy Pyrénées (Tây Ban Nha) đến sông Elbe và Boen (Đức), từ Địa Trung Hải cho tới Bắc Hải.

Triều đại của ông trở thành một thời kỳ phục hưng của Giáo hội La Mã. Ngày nay Carolus I được coi như là vị Cha già Dân tộc của cả hai nước Pháp và Đức, thậm chí có khi là Người cha của cả châu Âu ("pater Europae") hay Nguyên thủ của cả thế giới ("capus orbit"). Charlemagne là vị vua đầu tiên của một đế quốc tại Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế quốc La Mã phía Tây (476). Trong khi chính trị gia Đức Quốc xã Heinrich Himmler công khai tố cáo ông là "kẻ giết những người Đức", trùm phát xít Adolf Hitler xem ông là một trong những vị hoàng đế vĩ đại trong lịch sử Đức.

Thân thế và thời niên thiếu

Karl sinh ngày 2 tháng 4 năm 742 Công nguyên, xuất thân trong gia tộc Arnulf, một gia tộc danh tiếng của vương quốc Frank. Ông là con trai trưởng của Pipin Lùn, viên Quản thừa (Maire du palais) cuối cùng của triều đại Merovingien (741 – 751) và là vua đầu tiên của triều đại Caroling của vương quốc Frank. Mẹ ông là Bertrade, con gái của Bá tước xứ Laon. Theo các sử gia biên niên thời đó, cha mẹ của Karl chỉ chính thức kết hôn khi cậu được vài tuổi, lúc đó con trai của họ mới được làm phép rửa tội và đặt tên thánh. Năm Karl 7 tuổi, cậu có một đứa em tên là Karloman. Kể từ sau khi vua Clovis I qua đời, các vị vua Frank đều yếu kém, do đó các viên Quản thừa thâu tóm quyền bính.

Karl sớm tham gia các trò chơi đòi hỏi nhiều về vận động cơ bắp như săn bắn, cưỡi ngựa và đặc biệt là cậu rất thích bơi lội. Lớn lên một chút, Karl được dạy võ, dạy kiếm thuât, bắn cung và dạy về kiến thức quân sự, đặc biệt trong bài binh bố trận. Cậu cũng được giáo dục về văn hóa, được các giáo sĩ kể chuyện về Kinh Thánh, về các Thánh tông đồ, về lịch sử Giáo hội và những bài học đạo đức rút ra từ các câu chuyện đó cũng như được giáo dục về quy tắc ứng xử và các nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên Karl không được học đọc học viết, một lỗ hổng kiến thức mà vị vua tương lai sẽ ra sức bù đắp về sau. Pipin Lùn cũng đã không bỏ qua một cơ hội nào để huấn luyện con trai mình về phép cai trị đất nước, cách đánh giá các cận thần,... Từ nhỏ, Karl đã theo Pipin trong các chuyến công cán, mắt thấy tai nghe mọi việc và còn tham gia phụ giúp cha mình việc chính sự, nhờ đó học hỏi được nhiều kinh nghiệm về mọi mặt.

Lên ngôi vua

trái|Chân dung vua Karl Đại Đế tại Nhà thờ chính tòa Moulins, nước Pháp vào [[thế kỷ XV.]] Vào ngày 24 tháng 9 năm 769, Pipin Lùn trong khi chinh phạt xứ Aquintaine đã qua đời tại Saint-Denis, hưởng dương 54 tuổi. Theo truyền thống của người Frank, trong di chúc của vua Pipin thì vương quốc được chia đôi cho hai người con trai dưới sự chủ trì của Thái hậu Bertrade. Karl nhận được Austrasia, phần lớn Nuestria và lãnh thổ nằm giữa sông Loire và sông Garrone. Em trai ông, Karloman thì cai trị phía Đông Burgundy, Provence, Alemanini và đông Aquintain. Ngày 9 tháng 10 năm đó, Carolus I và Karloman I cùng nhau làm lễ xưng vương, một ở Noyon, một ở Soissons.

Các cuộc chinh phạt

"Nhờ vào một thanh bảo kiếm và một Thập tự giá", vua Karl Đại Đế trở thành vị Bá vương của toàn thể Tây Âu. Là một vị vua - chiến binh, sau khi trở thành vị Quốc vương duy nhất của Vương quốc Frank vào năm 771, ông bắt đầu thực hiện những ý định sau của ông: Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng chính những tài năng của ông mới giúp ông liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường : ông là một nhà chinh phạt kiên trì, đồng thời là một chiến binh dũng mãnh. Và, cũng như vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia và vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, ông là một thiên tài quân sự.

Chinh phục Aquintaine

Ít lâu sau khi lên nối ngôi, hai vị vua mới của Vương triều Karolingien nhanh chóng đi vào vết xe đổ của triều đại trước. Sự rạn nứt trong quan hệ giữa hai anh em đã đến mức mà Thái hậu Betrade không thể nào hòa giải được. Ví dụ, khi vùng Aquintaine thuộc quyền cai trị của Karl nổi loạn vào tháng 3 năm 769, vua Carolus I đã nhờ đến sự giúp đỡ của em trai mình và vua em Karloman đã chối từ, lấy lý do là các cận thần không thích việc binh đao. Điều này đã khiến vua anh Carolus I hết sức thất vọng.

Nhưng vua Carolus I không nản lòng. Ông tự mình cầm quân đánh xuống vùng Aquintaine. Năm 769, Quân đội của vua Carolus I tràn vào vùng này. Công tước Aquintaine hoảng sợ, vội vã bỏ chạy sang Công quốc Gascony. Karl không buông tha, vượt sông Garonne tràn vào Gascony quyết bắt cho kỳ được viên công tước này. Công tước Lupus của Gascony biết sức mình không chống nổi với Karl bèn phải giao nộp công tước Aquintaine và cắt một phần lãnh thổ dâng cho Karl. Kết quả của cuộc chinh phạt này đã giúp cho Karl làm chủ một vùng lãnh thổ rộng lớn và phì nhiêu tại lưu vực sông Garonne, sông Dordogne cho tới phía Bắc dãy Pyrénées. Ngay lập tức Karl liền xua quân chiếm đoạt lãnh thổ của Karloman. Tức giận vì bị cướp đoạt quyền thừa kế, góa phụ và hai con trai của Karloman đã chạy sang lánh nạn tại vương quốc Lombardia, điều này làm Karl càng giận dữ.

Karl và giáo hoàng Adrianô I

Mùa thu năm 773, Karl xua quân qua dãy Anpơ chinh phạt Lombardia. Vua Karl ngồi trên lưng con chiến mã với tư thế oai phong lẫm liệt. Ông mặc áo giáp sắt sáng lấp lánh, đầu đội mũ trụ, tay bọc giáp sắt, tay trái cầm một ngọn giáo sắt, tay phải đặt lên chuôi chiếc gươm đeo bên hông. Con chiến mã của ông cũng có màu đỏ xám như sắt. Cả đạo quân của ông cũng trang bị áo giáp sắt, khiến "khắp đồng nội cũng như khắp bầu trời đâu đâu cũng lập lòe ánh sáng của các loại giáp sắt.". Karl đã xua dòng lũ bằng sắt thép đó tàn phá miền Lombardia của Ý. Bằng một cuộc hành quân táo bạo vượt qua hẻm núi giữa ngọn Cenis và ngọn Saint Bernard, Quân đội Frank đã tập kích vào sau lưng quân Lombardia và đánh tan tác quân địch. Desiderius tháo chạy về kinh đô Pavia, còn vợ con của Karloman chạy về Verona. Karl xua quân truy kích, chiếm Verona và bắt sống vợ con của Karloman, cướp đoạt toàn bộ tài sản của gia đình họ. Đến tháng 6 năm 774, sau những trận công kích dữ dội Pavia thất thủ và gia đình Desiderius bị bắt đưa về Liège. Không thấy những sử liệu nào thời đó nói về số phận của con gái Desiderius, người vợ đã bị Karl ruồng rẫy. Với lưỡi gươm bất khả chiến bại của ông, bộ lạc hung dữ Lombardia đã sụp đổ sau hai thế kỷ thống trị bán đảo Ý.

Đến năm 787, Karl đích thân xua quân xuống miền Nam Ý, tới tận Capua để uy hiếp Công tước Benevento, buộc ông ta nộp cống và xưng thần.

Chiến dịch đầu tiên mở màn vào năm 772 sau một vụ cướp phá của những người Sachsen. Carolus I đích thân chỉ huy quân đội Frank tiến từ miền Hessen tiến vào phía Nam lãnh thổ Sachsen và chiếm Eresburg. Quân đội Frank tiếp tục phá vỡ một vòng thành bảo vệ thân cây Irminsul - cây cột chống trời trong truyền thuyết của người Sachsen - và cướp đoạt toàn bộ vàng bạc châu báu mà người dân Sachsen đem đến để dâng cúng cho cây trụ này. Sau đó quân đội Frank tiến đến sông Weser. Nhưng người Sachsen vẫn tiếp tục chiến đấu một cách ngoan cường. Họ lợi dụng việc Karl vướng bận vào chiến sự ở Lombardia, lại nổi dậy chống lại vương quốc Frank. Họ đánh phá Hessen và chiếm thánh đường Fritzler - biểu tượng của thắng lợi trong sứ mệnh truyền đạo của các giáo sĩ Công giáo. Carolus I nhanh chóng trừng phạt hành vi này vào năm 774 và đến năm sau, năm 775 ông lại điều đại binh mở một cuộc hành quân quy mô lớn, chiếm pháo đài Sigisburg, tụ điểm dân cư Brunisberg và dừng lại bên bờ sông Weser. Trước sức kháng cự mãnh liệt của người dân Sachsen, Karl thay đổi chiến lược, quân đi đến đâu xây dựng đồn lũy đến đó nhằm dần dần lấn chiếm lãnh thổ người Sachsen tựa tằm ăn lá dâu.

Cuộc chiến tranh xâm lược của Karl đối với người Sachsen được che đậy bằng danh nghĩa truyền bá đạo Thiên Chúa cho các tín đồ dị giáo. Karl đã phái đông đảo giáo sĩ đến các khu vực của người Sachsen và xây dựng nhà thờ khắp nơi để ép người dân Sachsen theo đạo Thiên chúa. Vào năm 780 Karl ban bố sắc lệnh về khu vực của người Sachsen, trong đó cấm tiệt mọi tập quán "dị giáo", cấm dùng bạo lực xâm phạm nhà thờ và giáo sĩ, đồng thời ban hành hình phạt tử hình đối với ai phạm các điều nói trên hoặc không chịu làm phép rửa tội; quy định cư dân địa phương phải cung cấp tài sản, ruộng đất và phải đi lao dịch cho Giáo hội. Karl đã dùng biện pháp đàn áp đẫm máu và khủng bố tôn giáo để buộc người Sachsen theo đạo Cơ Đốc và mở rộng thế lực đến khu vực của người Sachsen và khu vực Trung Âu.

Mùa hè năm 776, vua Carolus I lại tổ chức một cuộc chinh phạt mới. Sau khi giành được thắng lợi, ông đã tổ chức một hội nghị ở Padeborn tại miền Nam Westphalia, trong đó bắt buộc các thủ lĩnh người Sachsen chiến bại phải tham dự và phải thề sẽ cải theo đạo Công giáo. Hội nghị Padeborn là bản tổng kết toàn bộ những thành quả của Karl đạt được ở Sachsen. Đồng thời, sau hội nghị công cuộc truyền đạo được xúc tiến mạnh mẽ hơn và có hệ thống hơn: xứ Sachsen bị chia thành các vùng truyền đạo khác nhau do các Giám mục và Tu viện trưởng cai quản.

Tuy nhiên người Sachsen vẫn tiếp tục nổi dậy và chiến đấu hết sức ngoan cường. Một thủ lĩnh dân Sachsen là Widukind đã dấy binh khởi nghĩa vào năm 778 nhân lúc Đại đế Carolus I bận chinh chiến ở Tây Ban Nha. Các tu sĩ bị tàn sát và khu vực bờ Đông sông Ranh bị cướp phá đến tận sông Moselle. Frank phản ứng ngay: trong suốt các năm 779 và 780 quân Frank càn qua quét lại, sục sạo đến tận bờ sông Enbơ - nơi giáp ranh với khu vực sinh sống của người Xlavơ. Carolus I buộc người Sachsen trong vùng phải bỏ đạo cũ chuyển sao đạo Thiên Chúa đồng thời tổ chức luôn một bộ máy hành chính thô sơ cho miền này.

Kiệt quệ, người Sachsen đành khuất phục. Tuy nhiên phong trào khởi nghĩa của người Sachsen chưa tắt đi. Năm 792 một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn lại bùng nổ.

Chiến tranh với nước Tây Ban Nha Hồi giáo

Vào giữa thế kỷ thứ 8, triều đại Umayyad bị lật đổ và thay bằng triều Abbas tại Ả Rập. Tuy nhiên, Phó vương Hồi giáo là Abderahman ở Tây Ban Nha vẫn trung thành với triều đại cũ. Do đó, Abderahman quyết định ly khai, lập một vương quốc đóng đô tại Córdoba. Để làm suy yếu Abderahman, triều đình Abbas đã kích động nhiều cuộc bạo loạn tại Tây Ban Nha. Alarabi, một trong những người chủ mưu cuộc bạo loạn năm 777 đã chạy sang Frank cầu xin sự giúp đỡ và đổi lại, sau khi giành được ngôi vua Alarabi sẽ thần phục vua Frank. Lúc này Carolus I vừa giành được các thắng lợi tại dãy Anpơ và bên kia bờ sông Ranh, ông liền chụp lấy cơ hội này để mở rộng quyền lực và cũng nhân việc này sẽ thu phục lại miền Tây Ban Nha đang nằm trong tay những kẻ ngoại đạo, kế tục công việc ủng hộ Giáo hội La Mã như các bậc tiên liệt đã từng làm.

Mùa xuân năm 778, Carolus I thân chinh đánh Tây Ban Nha. Một cánh quân Frank sẽ vượt qua phía Đông dãy Pyrénées, một cánh sẽ chiếm Navarre và sau đó sẽ hội quân ở Saragossa vốn đang nằm trong tay Alarabi. Tuy nhiên trước đó không lâu Alarabi đã bị người của phó vương Cordoba ám sát và thành Saragossa đã đổi chủ. Và quân Frank không đủ binh lực để đoạt được ngôi thành này, đồng thời họ lạc lõng giữa một nơi xa lạ không có người dẫn đường và tình hình của Tây Ban Nha đã ổn định trở lại. Cuối cùng Karl quyết định lui quân. Trên đường lui quân, vì cho rằng thành Pamplona thuộc Navarre là thành phố Hồi giáo nên quân Frank đã san phẳng nó thành bình địa để kẻ thù không dùng được.

Trước tình hình này, Tassillo quay sang cầu cứu Giáo hoàng La Mã nhưng vì Giáo hoàng đang nhận sự bảo trợ của vua Carolus I nên ông ta đã khuyên Tassillo phục tùng. Về phía mình, rút kinh nghiệm những lần trước, nhà vua Frank yêu cầu Tassillo phải phục tùng vô điều kiện và Giáo hoàng phải chấp nhận mọi biện pháp trừng phạt của nhà vua đối với Tassillo, đồng thời Tassillo phải ra yết kiến vua Carolus I tại Worms vào mùa hè năm 787. Tassillo thoái thác không đi và thế là công quốc Bayern trở thành mục tiêu của ba mũi tiến công của Quân đội Frank. Trước áp lực quân sự lớn như vậy và đồng thời bị đám cận thần bỏ rơi, vào ngày 3 tháng 10 năm 787, Tassillo đến đại bản doanh của vua Carolus I gần Ausburg để xin hàng. Thậm chí ông ta đã trao cho nhà vua Frank cây quyền trượng của mình cùng 12 con tin - trong đó có Thế tử Theodon, con trai ông. Tuy nhiên ngay sau đó Tassillo liền trở mặt. Ông bắt tay vào việc vận động thành lập liên minh với người Avar và với đế quốc Đông La Mã. Thế nhưng các cận thần của Tassillo, do lo sợ thế lực người Frank, lại một lần nữa phản bội ông ta và tố giác với nhà vua Frank. Thế là vào tháng 6 năm 778 Tassillo bị áp giải về Đại hội các chư hầu ở Ingelheim, bị cáo buộc nhiều tội trạng và bị tuyên xử tử hình. Tuy nhiên, nhà vua đã ân xá cho ông ta và chỉ đày ông cùng con trai vào một tu viện.

Rõ ràng vua Carolus I đã xử lý vấn đề Bayern một cách thận trọng hơn nhiều so với vấn đề Sachsen. Nguyên do có thể là vì Bayern là một chư hầu của vương quốc Frank và đã theo Công giáo từ lâu, và nó vốn lại nằm trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã xưa kia, tức có nền văn minh khá lâu đời. Người Bayern lại rất gắn bó với đất nước họ, tức họ đã cố kết thành một dân tộc hẳn hoi. Vua Carolus I tiếp tục duy trò chính sách thận trọng đó trong suốt thời gian sau. Vào năm 794, ông lại vời Tassillo tới đại hội các chư hầu tại Frankfurt và buộc ông ta phải từ bỏ mọi quyền lợi đối với công quốc, tạo cơ sở pháp lý cho việc sáp nhập Bayern vào lãnh thổ Vương quốc Frank. Tuy nhiên điều này không hề ảnh hưởng đến cương giới của Bayern, đồng thời Bayern cũng được thống nhất lại thành một đơn vị giáo phận duy nhất với thủ phủ là Salzburg. Tất cả những việc này nhằm khiến người Bayern nghĩ rằng chính quyền của vương quốc Frank là một sự nối tiếp đối với chính quyền Bayern xưa kia.

Sau khi chiếm được vùng đất cao ở miền Nam Đức, Đại Đế Carolus I tiến về phía Đông, đánh nhau với người Xlavơ bên bờ đông sông Enbơ. Ông đã đánh bại và chinh phục được các bộ tộc Xlavơ.

Chinh phục người Avar

Việc tiến quân về phía Đông của Quốc vương Carolus I tất nhiên phải đụng độ với người Avar vốn đang quần cư tại vùng trung du sông Donau. Nhà vua Frank cho rằng người Avar đứng sau các lần trở mặt của công tước Tassillo. Đồng thời các cuộc tấn công và cướp phá của người Avar khiến việc ổn định tình hình xứ Bayern trở nên khó khăn. Vào năm 788, người Avar đã mở một đợt tấn công lớn vào Bayern và Quân đội Frank đã phải rất vất vả để đẩy họ ra. Năm 790 hai bên đã cùng ngồi lại với nhau để đàm phán về vấn đề biên giới nhưng cũng không thu được kết quả.

Karl quyết định đã đến lúc cho người Avar nếm mùi chiến tranh trên chính lãnh thổ của họ. Mùa hè năm 791 ông thân chinh cầm quân chia làm hai cánh tiến vào xứ Avar. Mặc dù không gặp phải sự kháng cự quyết liệt của người Avar nhưng Quân đội Frank cũng không giành được thắng lợi nào quyết định. Vào năm 795, Quốc vương Carolus I lại tiếp tục xua quân tấn công và lần này Quân đội Frank xâm nhập tới tận Ring - nơi cất giấu các châu báu mà người Avar cướp bóc được (nay là thành phố Gyor). Trong chiến dịch lần này người Avar đã bị đánh bật khỏi bờ Tây sông Tisza, số ở lại bị buộc phải cải theo đạo Công giáo. Tuy nhiên, vua Carolus I không sáp nhập toàn bộ phần đất mới chiếm được mà chỉ thu nạp phần Kärnten, phần còn lại ông lập thành Biên trấn Đông (Ostmark).

Chinh phục xứ Bretagne

Ngươi Bretagne xưa kia là người Celt sống trên đảo Anh. Vào thế kỷ thứ 6 trước sức ép của người Angles và Sachsen xâm nhập một bộ phận người Kelt đã di cư sang bán đảo Armorica (nay là vùng Bretagne thuộc Tây Bắc nước Pháp). Tại đây họ vẫn duy trì truyền thống Celt, không chịu đồng hóa với người Frank và cứ thỉnh thoảng nổi lên chống lại sự thống trị của người Frank. Vào năm 786, vua Carolus I xua quân chinh phạt vùng Bretagne và bắt cư dân ở đây nộp con tin và xưng thần. Vào năm 799, ông lại ra quân một lần nữa và người Bretagne mới chịu khuất phục hẳn. Ông đã gửi cho Lêô một bức thư như sau:

Mùa thu năm 800, Karl lên đường tới Roma. Đích thân Giáo hoàng Lêô III ra tận Mentana cách Roma tận 20 cây số để đón ông. Ngày hôm sau (tức là ngày 24 tháng 11), Giáo hoàng cùng với toàn thể giáo sĩ Roma lại tổ chức đón Karl rất long trọng tại bậc thềm Nhà thờ Thánh Phêrô. Tiếp đó, Karl đã chủ trì các buổi họp minh định tội trạng của Lêô. Dưới sự ảnh hưởng của nhà vua, Hội nghị đã quyết định không bãi chức vị Giáo hoàng mà chỉ buộc ông ta tuyên đọc lời thề sám hối vào ngày 23 tháng 12. Giờ đây, ước mơ về sự tái lập đế quốc La Mã trong nhiều thế kỷ đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, đế quốc của Karl lại không phải là đế quốc La Mã, mà lại là "đế quốc La Mã Thần thánh". thái độ của Đông La Mã thời đó rất đáng chú ý. Lý do là lâu nay, Đông La Mã luôn xem mình là người kế thừa trực tiếp của Đế quốc La Mã và không chịu chia sẻ với ai danh hiệu này. Trong việc tiếp xúc với Đông La Mã, ông luôn thận trọng và tránh gây va chạm, xung đột. Vào năm 798, Karl đặt quan hệ với Đông La Mã và thậm chí ông còn dự định thiết lập quan hệ hôn nhân với Nữ hoàng Irene của Đông La Mã để thực hiện thống nhất hai đế quốc; tuy nhiên, vào năm 802 Irene bị truất phế và vua mới Nikephoros I không chịu thừa nhận đế hiệu của Karl I. Để trả đũa, vào năm 803, Karl xua quân tấn công các thuộc địa của Đế quốc Đông La Mã trên biển Adriatic như Venezia và Dalmatia. Về sau, do Nikephoros I lâm vào cuộc chiền tranh với người Bulgaria nên bắt đầu giảng hòa với người Frank. Vào năm 810, hai bên đạt được hiệp nghị qua đó Nikephoros I thừa nhận đế hiệu của Karl, phần Karl buông bỏ việc tấn công các thuộc địa của Đông La Mã.

Quan hệ đối ngoại

nhỏ|trái|Khalip [[Harun Al-Rashid|Harun al-Rashid tiếp đón phái bộ sứ thần của Karl tại Bagdad. Họa phẩm của Julius Köckert.]] Tiếng tăm của Karl và đế quốc của ông vang xa, việc giao hảo với các nước khác đều rất rộn rịp. Ngoài Đông La Mã, đế quốc Karolingien còn giao hảo với Ả Rập và trao đổi quà tặng với hoàng đế Harun al-Rashid của nhà Abbas. Quà tặng của hoàng đế Ả Rập là khỉ, hương liệu, thuốc uống, một con voi tên là Abul-Abbas, một chiếc đồng hồ nước tinh xảo và mấy chìa khóa mộ thánh Jerusalem; còn quà tặng của Karl là lừa, ngựa Tây Ban Nha, áo khoác Frisian và những con chó săn. Niên giám lịch sử Đế quốc Frank (tiếng Latin: Annales regni Francorum) đã ghi nhận về việc phái bộ Sứ thần Ả Rập chuyển dời con voi Abul-Abbas (801), việc họ dâng nó lên cho Hoàng đế Karl Đại Đế (802) và việc nó qua đời (810). Vua Alfonso II của xứ Asturias ở miền Bắc Tây Ban Nha, vua nước Đan Mạch, Anh Quốc và thủ lĩnh xứ Scotland đều đua nhau phái sứ thần đến bày tỏ hảo ý với Karl và xưng ông làm minh chúa. Bản thân ông cũng từng che chở cho vua xứ Wessex là Egbert và giữ mối quan hệ tốt đẹp với vị vua này. Trong quan hệ đối ngoại, Karl luôn chú trọng chọn lựa những người có tài hùng biện, giỏi ăn nói và thông minh lanh lợi làm sứ thần.

Đối nội

Trong việc đối nội, ông cũng đạt được những thành công vang dội, không kém những cuộc chinh phạt hiển hách của ông. Hằng năm các chư hầu phải hội tụ về một địa điểm nhất định để tham gia "Hiệu trường tháng Năm" do Karl tổ chức để nguyện thề trung thành với nhà vua, đồng thời đây cũng là dịp để ban thưởng và luận tội các chư hầu, bàn bạc việc nước và để nhân dân đề đạt ý kiến đối với các quyết sách của nhà vua. Chư hầu cũng phải thi hành "nghĩa vụ máu" nhằm cung ứng quân lực và tài lực khi có chiến tranh cùng các loại thuế đất, thuế một phần mười, chiến lợi phẩm, tiền phạt, thuế hàng chuyến, v.v... phải cung ứng nơi ở và lương thực cho Triều đình khi Triều đình đến đóng tại nơi của họ, đài thọ phí tổn liên quan đến việc công cán của các Quan Sát Sứ, v.v...

Một điều thú vị là trong suốt thời kỳ trị vì của Carolus I thì thủ đô của đế quốc được thay đổi nhiều lần - nói cách khác triều đình Frank không đóng tại một nơi cố định mà thường xuyên phải di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Nguyên nhân của các cuộc dời đô liên miên này là do thiếu lương thực: trình độ sản xuất thời bấy giờ không đủ để đáp ứng nhu cầu của một triều đình với đội ngũ cận thần và thành viên hoàng tộc hết sức đông đảo. Khi lương thực ở một nơi có nguy cơ cạn kiệt, triều đình lại được dời đi nơi khác và cứ như thế. Tuy nhiên, cuối cùng thì Carolus I cũng tìm được một nơi định đô lâu dài, đó là địa điểm nằm tại vị trí của thành phố Aachen thuộc Đức ngày nay. Aachen là nơi có một dòng suối nước nóng trong sạch, rất phù hợp với sở thích tắm suối nước nóng của nhà vua.

Chính sách văn hoá

Tổng quan, các nước Tây Âu có nền văn hoá kém phát triển trong vòng năm thế kỷ đầu tiên của chế độ phong kiến. Tuy nhiên, Đế quốc Frank hùng mạnh dưới triều vua Carolus I lại khác. Ông thu dùng các học giả danh tiếng (dù bản thân ông không biết chữ), khuyến khích nghệ thuật và học vấn, thu nạp các giá trị cổ La Mã và Tân Byzantine, dung hòa với văn hóa German. Ngoài ra, một mục đích khác của chính sách này là để đào tạo văn công làm cho thần dân cảm phục, giúp ông thu phục nhân dân những xứ bị Quân đội Frank chiếm đóng. Ông thiết lập trường học ngay tại kinh đô. Thời đại của ông và những người kế tục được gọi là "Thời đại Phục hưng Carolingian", ngụ ý sự phục hồi các giá trị La Mã của các vua triều Carolingian.

Bản thân Carolus I là một người gương mẫu trong việc tiếp thu văn hóa. Ban đầu Karl là một người mù chữ hoàn toàn, nhưng để nâng cao trình độ kiến thức của mình, ông đã bắt đầu học đọc và học viết. Ông luôn mang bên mình một tấm bảng để khi rảnh thì lấy ra tập viết. Chữ của nhà vua không được đẹp vì học quá muộn, nhưng ngày này qua tháng nọ ông luôn kiên trì học đọc học viết, vì Karl hiểu rằng một nhà vua có học thức mới là một nhà trị vì tài giỏi. Karl cũng thường xuyên đến thăm các trường học và lớp học, ông đã ban thưởng cho những học sinh nghèo học giỏi và trách phạt các học sinh yếu kém.

Là một Hoàng đế nhưng Carolus I không đua đòi theo thói xa hoa của các vị nguyên thủ đương thời. Ông ăn mặc rất giản dị theo phong tục truyền thống của người Frank. Bữa ăn chính của ông cũng chỉ gồm bốn món và ông đặc biệt uống rượu điều độ. Karl rất chán ghét những kẻ suốt ngày rượu chè be bét. Trong thực đơn hàng ngày có một món ông rất thích đó là món thịt nướng do các thợ săn mang tới. Khi các ngự y khuyên Karl hạn chế ăn thịt nướng và nên ăn thịt nấu, vị Hoàng đế gác bỏ lời khuyên của họ ngoài tai.

Carolus I qua đời vào năm 814.

Cá nhân

Tính cách

Mặc dù không có miêu tả từ cuộc đời của Charlemagne còn tồn tại, tính cách cá nhân của ông thường được biết đến từ một mô tả của Einhard, tác giả cuốn tiểu sử về Karl Đại Đế (Vita Karoli Magni). Einhard nói trong chương hai mươi hai của mình:

"_Vua là người có dáng vóc khôi vĩ, vững chắc và có tầm vóc đáng kể vì chiều cao của vua lên tới bảy foot và vua có một cái đầu tròn, đôi mắt to và sống động, một cái mũi hơi lớn hơn so với bình thường, tóc màu trắng nhưng vẫn đẹp, thể hiện một sự tươi sáng và vui vẻ với cái cổ ngắn và có nhiều mỡ và vua được thừa hưởng một sức khoẻ tốt, ngoại trừ cơn sốt có ảnh hưởng đến vua trong vài năm cuối đời. Vào lúc cuối đời vua bị kéo lê một chân, mặc dù vậy vua vẫn tỏ ra "cứng đầu" bằng cách làm những gì vua muốn và từ chối nghe theo lời khuyên của các bác sĩ – vua rất ghét họ vì họ muốn thuyết phục vua ngừng ăn thịt nướng và bắt vua phải ăn thịt luộc một kiểu nấu nướng mà vua không thích._"

Bức chân dung về mặt vật lý được cung cấp bởi Einhard được xác nhận bởi những mô tả đương thời về hoàng đế, chẳng hạn như ở trên những đồng tiền xu và tượng bằng đồng của ông được giữ trong cung điện Louvre. Năm 1861, ngôi mộ của Charlemagne đã được mở ra bởi các nhà khoa học để họ tạo lại bộ xương của ông và người ta ước tính rằng cơ thể của ông cao khoảng . Một nghiên cứu hiện đại dựa trên kích thước xương ống chân và ước tính chiều cao của ông là khoảng . Với chiều cao này thì ông cao hơn 99 % những người đàn ông ở thời kỳ của ông vì chiều cao trung bình của nam giới ở thời gian của ông là . Chiều rộng của xương hông cho thấy ông có dánh bề ngang thanh mảnh và không thực sự có một cấu tạo cơ thể mạnh mẽ.

Charlemagne cũng được biết đến với bộ tóc dài trung bình, cao lớn, và trang nghiêm, với một cái cổ to không tương xứng. Truyền thống vẽ chân dung cá nhân của La Mã lúc đó thường chọn lúc nửa tối nửa sáng, để làm biểu tượng hóa những đặc điểm cá nhân của người được vẽ tranh. Charlemagne lại là một vị vua lý tưởng nên ông đã được miêu tả chân dung theo một phong cách tương ứng và tất cả các bức chân dung về ông thời kỳ này đều như vậy. Những bức tranh vẽ Charlemagne đăng quang, trở thành đại diện của Thiên Chúa Kitô trên Trái Đất, chịu nhiều những ảnh hưởng từ chân dung của Chúa Kitô hơn là về khuôn mặt thật của ông. Hình ảnh của Charlemagne trong những bức tranh của người đời sau thường được mô tả với mái tóc vàng chảy, vì ông đã mắc hiểu nhầm từ cuốn sách của Einhard, người mô tả là có Charlemagne canitie Pulchra, hoặc là "tóc đẹp màu trắng" và cũng đồng thời do phải thu thập thông tin từ nhiều bản dịch, thế là ông này kết luận rằng tóc của Charlemagne có màu vàng.

Trang phục

nhỏ|Trong Bibliothèque Nationale de France Charlemagne thường mặc trang phục truyền thống, không dễ thấy và rõ ràng không phải là trang phục quý tộc của người Frank. Mô tả bởi Einhard như sau:

"_Ông thường mặc những trang phục kiểu dân tộc, là trang phục của người Frank: đó là một chiếc áo vải lanh và quần vải lanh ống túm và bên ngoài là những chiếc áo dài lụa tua, trong khi ống quần được cài chặt bởi các băng vải để che đi cái chân bị tật (khi về già của ông) đi giày, vào mùa đông ông bảo vệ và giữ ấm cho vùng vai và ngực của mình bởi một chiếc áo lót bằng da rái cá hoặc da chồn thông Châu Âu (Martes)._""

Ông mặc một chiếc áo choàng màu xanh và luôn luôn mang theo một thanh kiếm trong mình. Đó là một thanh kiếm điển hình với một chiếc cán kiếm vàng hoặc bạc. Ông thường đeo thanh kiếm ưa thích để dự tiệc hoặc đón tiếp sứ giả nước ngoài. Tuy nhiên: Là vị Quân vương vĩ đại nhất của Tây Âu vào thời đó, ông có tài năng trị vì và là một thiên tài quân sự, nên các nhà sử học cũng thường hay gọi ông là Karl Đại Đế. Đối với Hoàng đế Karl Đại Đế, cũng như đối với Quốc vương Alexandros Đại Đế hay Quốc vương Friedrich II Đại Đế, họ được vinh danh là "Đại Đế" không chỉ vì những chiến công hiển hách mà còn là vì tài năng chính trị của họ. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, Đế quốc La Mã Thần thánh vẫn còn tồn tại, nhưng nó suy yếu và bị chia cắt. Không có một người con nào của ông có được thiên tài của vua cha. Vào năm 1095, khi Giáo hoàng Urbanô I phát động cuộc Thập tự chinh thứ nhất, ông đã kêu gọi nhân dân nhớ đến những năm tháng huy hoàng của Hoàng đế Karl Đại Đế. Cũng qua đó, người ta viết nên bản Trường ca Roland, đưa một trong những chiến bại thảm hại nhất của nhà vua thành một trong những chiến công hiển hách của ông. Vốn vô cùng ngưỡng mộ hai vị Hoàng đế Karl Đại Đế và Otto Đại Đế, Hoàng đế Friedrich I Barbarossa, cũng quyết tâm phát triển Đế quốc La Mã Thần thánh huy hoàng. Nhưng tới thế kỷ 18, nhà triết học Voltaire đã châm biếm Đế quốc La Mã Thần thánh: "không phải thần thánh, không phải La Mã, mà cũng không phải là đế quốc". Vào tháng 2 năm 1806, Hoàng đế Pháp và nhà quân sự nổi tiếng Napoléon Bonaparte đã thông báo với Giáo hoàng La Mã rằng, ông hoàn toàn là một Charlemagne mới. Napoléon đội vương miện Pháp chắp ghép với vương miện Lombardia. Là một người chiến binh vĩ đại, tuy ông sinh ra ở Đức và nói tiếng Đức, nước Pháp xem ông là một vị anh hùng dân tộc. Nước Đức cũng xem ông là một vị anh hùng dân tộc, trong hàng ngũ của vị Quốc vương vĩ đại của nước Phổ là Friedrich II Đại Đế - ông vua đã đi vào lịch sử như một huyền thoại, cùng với nhà thần học Martin Luther.

Đối với nhiều thành viên Đảng Quốc xã, Đại đế Karl là một nhân vật phản diện trong lịch sử nước Đức. Họ không gọi ông là "Karl Đại đế" mà xem ông là "Karl - tên giết người Sachsen". Heinrich Himmler, con của một giáo sư sử học Trung Cổ, cũng không ưa gì Charlemagne do ông liên tục đánh thắng người Sachsen. Tuy nhiên, Quốc trưởng Đức Quốc xã Adolf Hitler lại là một người ngưỡng mộ ông. Đối với Hitler, Charlemagne là một vĩ nhân trong lịch sử Đức.

Mỗi lá bài Già (còn gọi là lá bài "K" hay "King") đều có hình một vị vua trong lịch sử thế giới. Chân dung Karl có trên lá bài "Già Cơ".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Carolus Magnus** (có khả năng sinh ngày 2 tháng 4 năm 747 hoặc 748 - mất ngày 28 tháng 1 năm 814 tại Aachen, Đức), tiếng Latin, đôi khi được viết là **Karolus Magnus;** tiếng
**Villiers-Charlemagne** là một xã thuộc tỉnh Mayenne trong vùng Pays de la Loire tây bắc nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 95 mét trên mực nước biển.
**Mikaili Charlemagne** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 2003) là một vận động viên bơi lội người Saint Lucia. Cô đã tham gia cuộc thi tự do 100 mét nữ tại Giải vô địch thể
Vì Sao Như Thế Nào - Thời Trung Cổ Vì sao mỗi lâu đài có một khu vườn bí mật Trở thành hiệp sĩ như thế nào Vì sao đường phố thời Trung cổ thường
Vì Sao Như Thế Nào - Thời Trung Cổ Vì sao mỗi lâu đài có một khu vườn bí mật Trở thành hiệp sĩ như thế nào Vì sao đường phố thời Trung cổ thường
thumb|Awarenmark ở phía đông Bavaria giữa sông (_Donau_) và sông Drava (_Drau_) **Awarenmark** (Avaria, ) là một huyện biên giới phía đông nam Đế quốc Caroling, được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 8
Ở Tây Ban Nha, chúng tôi nói: thứ tốt, nếu tiện dụng thì tốt gấp đôi. Nhưng ai lại không muốn đi cùng bạn ấy cả mùa hè? Với kích thước du lịch, bạn có
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
**Ađrianô I** hoặc **Hadrianô I ** (Tiếng Latinh: **Adrianus I**) là vị giáo hoàng thứ 95 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào
**Nhà thờ chính tòa Aachen** (thường được coi là "**Nhà thờ Hoàng đế Đức**" (Đức: _Aachener Dom_) là một nhà thờ Công giáo Rôma nằm ở thành phố Aachen, miền tây Đức. Nhà thờ này
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Trường ca Roland** (tiếng Pháp: _La Chanson de Roland_) là một anh hùng ca hư cấu dựa trên Trận Roncevaux diễn ra năm 778, giữa quân Charlemagne và người Islam. ## Bối cảnh _Trường ca
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Carolus Martellus**(, ; 688 – 741) là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Frank, với tước hiệu _dux et princeps Francorum_ (công tước và hoàng thân Frank) và Quản thừa ông
Đại sảnh Constantinus Phòng Heliodorus Bốn gian **phòng Raffaello** () tạo thành một dãy phòng chức năng lễ tân bên trong Điện Tông Tòa, nay là một phần của Bảo tàng Vatican tại Thành Vatican.
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
nhỏ|Tassilo cưỡi ngựa đi săn với 3 người hầu tùy tùng (Meister der Pollinger Tafeln, 1444) **Tassilo III.** (* khoảng 741; † khoảng 796) là công tước xứ Bayern cuối cùng của gia tộc Agilolfing
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Ludovicus Pius** (, ; * tháng 6/8 778 ở Chasseneuil gần Poitiers; † 20 tháng 6 840 tại Ingelheim am Rhein) hay **Louis Mộ Đạo**, **Louis Đệ Nhất** (_Louis Ier_ trong tiếng Pháp, _Ludwig I_
**Tu viện vương quyền của Corvey** () là một tu viện dòng Biển Đức cũ và là lãnh địa giám mục vương quyền nằm ở bang Nordrhein-Westfalen, Đức ngày nay. Đây là một trong những
## Triều đại Mérovingiens (500-751) Ở xứ Gaul, sự đồng hóa giữa xã hội La Mã và Đức xảy ra nhanh chóng. Năm 486, Clovis, một người Salian thuộc tộc Frank được cho là có
**Nghị viện châu Âu** (Europarl hay EP) là một nghị viện với các nghị sĩ được bầu cử trực tiếp của Liên minh châu Âu (EU). Cùng với Hội đồng Liên minh châu Âu (_the
**Céline Marie Claudette Dion** (, sinh ngày 30 tháng 3 năm 1968) là một nữ ca sĩ người Canada. Bà gây chú ý với giọng hát nội lực và kỹ thuật điêu luyện. Âm nhạc
**Metz** là tỉnh lỵ của tỉnh Moselle, thành phố chính của vùng hành chính Lothringen, Pháp, có dân số là 124.300 người (thời điểm 2005). ## Lịch sử Metz nguyên thủy là chỗ cư trú
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Paderborn** là một thành phố nằm ở bang Nordrhein-Westfalen, Đức. Thành phố có dân số khoảng 144.908 người. Paderborn là thủ phủ của huyện Paderborn. Tên của thành phố xuất phát từ sông Pader, bắt
**Irene thành Athena** hay **Irene người Athena** () (752 – 803) là tên thường gọi của **Irene Sarantapechaina** (), là Nữ hoàng Đông La Mã đương vị từ năm 797 đến 802. Trước khi trở
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Evdokia Grigorievna Reshetnik** (; 1 tháng 3 năm 1903 (lịch Julius)/14 tháng 3 năm 1903 (lịch Gregorius) – 22 tháng 10 năm 1996) là một nhà động vật học và sinh thái học người Ukraina.
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Tu viện Thánh Gioan** (,) là một tu viện dòng Biển Đức cổ ở Val Müstair, Graubünden, Thụy Sĩ. Nó mang kiến trúc Nghệ thuật Carolingian đặc biệt được bảo quản rất tốt và đã
**Vương quốc Ý** ( hoặc , , ) là một thực thể chính trị của đấng Tối cao thời Trung Cổ. Ở bán đảo Ý thời bấy giờ, không có nhà nước thực sự và
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
**_Thợ săn yêu tinh: Titan trỗi dậy_** (tên gốc tiếng Anh: **_Trollhunters: Rise of the Titans_**) là phim điện ảnh hoạt hình máy tính khoa học kỳ ảo của Mỹ ra mắt năm 2021 do
**Lang's Fairy Books** là tuyển tập 25 cuốn truyện cho thiếu nhi do tác giả Andrew Lang và phu nhân Leonora Blanche Alleyne công bố giai đoạn 1889 - 1913 tại Scotland. ## Lịch sử
thumb|Bức tranh mô tả Abbot Fulrad đưa ra lời bảo lãnh bằng văn bản của Pepin cho Giáo hoàng Stephen II thumb|Bản đồ các vùng lãnh thổ Lombard năm 756 trước khi có sự hiến
Tranh "Victory over the Grave" (Chiến thắng sự chết), của Bernhard Plockhorst, thế kỷ 19 **Lễ Phục sinh** thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo
Ngày **28 tháng 1** là ngày thứ 28 trong lịch Gregory. Còn 337 ngày trong năm (338 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *98 - Sau cái chết của Nerva, Trajan được tôn làm
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**François-Marie Arouet** (; 21 tháng 11 năm 1694 – 30 tháng 5 năm 1778), được biết đến nhiều hơn dưới bút danh **Voltaire** (; ; phiên âm tiếng Việt: **Vôn-te**), là một nhà văn, sử
Vùng trồng nho Bourgogne là một trong hai vùng trồng nho và sản xuất rượu vang lớn nổi tiếng của Pháp (cùng với Vùng trồng nho Bordeaux). Các nhãn hiệu rượu vang đã được kiểm
phải|Lâu pháo đài Lourdes Tranh kiếng màu trong Vương cung thánh đường Mân Côi **Lourdes** (; _Lorda_ trong phương ngữ Gascon của tiếng Occitan, cũng phiên âm tiếng Việt là **Lộ Đức**) là một thành
**Cung điện Tau** (tiếng Pháp: _Palais du Tau_) là cung điện của Tổng giám mục tại Reims, Pháp. Đây là nơi ở của các hoàng đế Pháp trước khi họ làm lễ đăng quang theo