✨Fujiwara no Shōshi

Fujiwara no Shōshi

, hay , là con gái lớn của Fujiwara no Michinaga và là Hoàng hậu Nhật Bản tại vị từ năm 1000 đến năm 1011. Bà tiến cung cho Thiên hoàng Ichijou khi mới 12 tuổi. Nhờ quyền lực, ảnh hưởng và những mưu mô chính trị, bà nhanh chóng thăng tiến lên chức vị . Với địa vị chính cung của mình, bà đã được hầu cận bởi những vị Nữ quan có tài năng và học thức, trong đó có nữ danh sĩ Murasaki Shikibu, tác giả của Truyện kể Genji.

Năm bà 20 tuổi, bà hạ sinh hai con trai cho Thiên hoàng Ichijou, cả hai về sau đều trở thành Thiên hoàng, do đó, bà đã bảo toàn được vị thế cho dòng họ Fujiwara. Năm bà 30 tuổi, bà trở thành một nữ tu Phật giáo, từ bỏ các bổn phận và tước hiệu trong cung.Song bà vẫn tiếp tục là một thành viên có ảnh hưởng trong gia đình hoàng thất cho đến khi qua đời ở tuổi 86.

Hoàng hậu

Vào giữa thế kỷ thứ 9, Fujiwara no Yoshifusa tuyên bố ông ta sẽ là quan nhiếp chính cho Thiên hoàng Seiwa. Như vậy, gia tộc Fujiwara đã toàn quyền kiểm soát nền chính trị cho đến cuối thế kỷ 11, thông qua các cuộc hôn nhân chính trị giữa những cô con gái nhà Fujiwara với các thành viên hoàng thất. Fujiwara no Michinaga đã sắp xếp cho bốn cô con gái của mình kết hôn với các vị Thiên hoàng. Vào thời kỳ này, các vị Thiên hoàng nắm giữ rất ít quyền lực, vị trí của họ chỉ là danh nghĩa, mang tính nghi lễ nhiều hơn và tuổi còn quá trẻ. Thay vào đó, quyền lực chính trị được nắm giữ bởi một vị quan nhiếp chính, với quyền lực thường được đo bằng mức độ chặt chẽ của nhiếp chính trong mối quan hệ cá nhân của họ với gia đình Hoàng thất. Năm 995, hai anh em của Michinaga là Fujiwara no Michitaka và Fujiwara no Michikane lần lượt qua đời, Triều đình không còn ai có thể nắm quyền; và Michinaga đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh quyền lực với cháu trai Fujiwara no Korechika, anh vợ của Thiên hoàng Ichijou và là anh trai của Hoàng hậu Teishi, cộng với sự giúp đỡ của chị gái Senshi (mẹ của Thiên hoàng Ichijou, vợ của Thiên hoàng En'yū). Do Hoàng hậu Teishi ủng hộ Korechika, nên sau đó bà bị trục xuất khỏi cung, cũng như mất đi quyền lực của mình.

Bốn năm sau, Michinaga cho con gái lớn Shōshi tiến cung cho Thiên hoàng Ichijou, khi đó bà mới 12 tuổi. Một năm sau khi Shōshi tiến cung, trong nỗ lực phá hoại ảnh hưởng chính trị của Hoàng hậu Teishi và tăng cường vị thế cho bà, Michinaga ép buộc Thiên hoàng phải phong cho bà làm Hoàng hậu, mặc dù trước đó Teishi đã nắm giữ địa vị này. Như nhà sử học Donald Shively giải thích, "Michinaga đã gây sốc ngay cả những người theo phe mình bằng cách sắp xếp cuộc gặp giữa Hoàng hậu Teishi (Hoàng hậu Sadako) với Hoàng hậu Shōshi như giữa hai người có địa vị tương đương nhau. Teishi giữ danh hiệu Hoàng hậu.

Nữ quan của Hoàng hậu

trái|nhỏ|235x235px| Nữ danh sĩ [[Murasaki Shikibu, được thể hiện trong bức tranh minh họa cuối thế kỷ 16 của Tosa Mitsuoki, đã trở thành nữ quan hầu cận cho Hoàng hậu Shōshi vào năm 1005. ]] Để gây dựng uy tín cho Hoàng hậu Shōshi và giúp bà cạnh tranh và đạt được tầm ảnh hưởng lớn trong triều đình, Michinaga đã cho tìm kiếm những vị Nữ quan tài năng, có học thức để có thể hầu hạ tốt cho con gái, giúp bà cạnh tranh với Hoàng hậu Teishi và Công chúa Seishi (con gái của Thiên hoàng Murakami). Michinaga đã cho vời Murasaki Shikibu, tác giả của Truyện kể Genji, đến hầu cận cho Hoàng hậu Shōshi, cùng với Izumi Shikibu và Akazome Emon. Trong khi đó, hầu cận Hoàng hậu Teishi, là nữ văn sĩ Sei Shōnagon, tác giả của Truyện gối đầu. Những vị Nữ quan của cả hai vị hoàng hậu đã viết một số văn kiện thời Heian, tất cả đều đạt được độ nổi tiếng nhất định và ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau này.

Mặc dù phải sống trong Hoàng cung theo truyền thống, nơi ở chính của Hoàng hậu Shōshi lại thuộc về một trong những tòa thành của cha bà, đặc biệt là sau khi Hoàng cung xảy ra hỏa hoạn vào năm 1005. Khi Murasaki trở thành nữ quan trong cung Hoàng hậu,Hoàng hậu Shōshi đã 16 tuổi, và vị nữ quan ấy đã dạy cho bà tiếng Trung. Học giả Nhật Bản Arthur Waley mô tả Hoàng hậu Shōshi với dáng vẻ nghiêm túc dựa trên đoạn Nhật ký của Murasaki: "Năm tháng trôi qua, Hoàng hậu bắt đầu có thêm kinh nghiệm về cuộc sống và không còn phán xét người khác bởi sự cứng nhắc khuôn khổ như trước đây, nhưng trong khi đó, triều đình riêng của Người đã nổi tiếng về sự ngu dốt cực độ, và bị mọi người xa lánh ". Hơn nữa, Murasaki đã thuật lại lời khuyên mà Hoàng hậu Shōshi dành cho những vị Nữ quan của mình:

Hoàng hậu thực sự vẫn liên tục cảnh báo chúng tôi rằng đó là một sai lầm lớn khi đi quá xa, 'một cú trượt cũng có thể mang lại hậu quả rất tệ hại,' và cứ thế, theo kiểu cũ; nhưng bây giờ Ngài ấy cũng cầu xin chúng ta đừng từ chối những tiến bộ theo cách làm tổn thương cảm xúc của mọi người. Thật không may, thói quen từ lâu không dễ dàng thay đổi; hơn nữa, bây giờ khi những người anh em cực kỳ sành sỏi của Hoàng hậu mang rất nhiều cận thần bằng hữu của họ đến cung Hoàng hậu giải khuây, chúng tôi phải ra mặt tự vệ chỉ để chứng tỏ với họ rằng mình có học thức và đạo đức '. Khi sinh người con trai thứ hai là Thân vương Atsuhira, Hoàng hậu Shōshi đã phải trải qua lần sinh nở khó khăn; cho rằng đó là do những linh hồn xấu xa gây ra, bà đã thực hiện nghi thức xuống tóc, mặc dù chỉ có một lọn tóc của bà được cắt. Nghi thức này được coi là một lễ xuất gia nhỏ, hay nghi thức khai tâm Phật giáo, với mục đích nhận được sự bảo vệ của thần linh đối với bà và con trai khỏi nguy hiểm. Vào ngày thứ 50 sau khi sinh, một buổi lễ được tổ chức, trong đó vị Thân vương mới sinh được dâng lên một miếng mochi; Michinaga đã thực hiện nghi thức dâng bánh gạo cho cháu trai Atsuhira. Trong nhật ký của mình, Murasaki đã mô tả sự kiện mà có lẽ bà đã tham dự.

Nhờ vào ảnh hưởng của ông ngoại Michinaga,nên hai người con trai của Hoàng hậu Shōshi có cơ hội trở thành người thừa kế ngai vàng hơn là con của Hoàng hậu Teishi, đặc biệt là sau khi Teishi qua đời vào năm 1001. trưởng tử của Hoàng hậu Shōshi đã được sắc phong làm Hoàng Thái tử, về sau ông lên ngôi, trở thành Thiên hoàng Go-Ichijō. Vào năm 1016, Michinaga tiến cung con gái Kenshi cho Thiên hoàng Sanjō, và cũng buộc Thiên hoàng phải phế ngôi Thái tử đang vốn dĩ thuộc về Thân vương Atsuakira, con trưởng của ông. Cuối cùng, con trai thứ hai của Shōshi đã được phong làm Hoàng Thái tử kế nhiệm vào năm 1017, về sau ông lên ngôi, trở thành Thiên hoàng Go-Suzaku. Nhờ có hai người con trai lần lượt trở thành Thiên hoàng và Hoàng Thái tử, vị trí của Shōshi đã được bảo toàn và bà đã gây dựng được tầm ảnh hưởng mạnh mẽ cho mình trong Triều đình.

Bà mất vào năm 1074, hưởng thọ 86 tuổi.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, hay , là con gái lớn của Fujiwara no Michinaga và là Hoàng hậu Nhật Bản tại vị từ năm 1000 đến năm 1011. Bà tiến cung cho Thiên hoàng Ichijou khi mới 12
là con trai thứ của Nhiếp chính Đại thần Michitaka và là một công khanh sống vào thời kỳ Heian. Mẹ ông là nữ thi sĩ Takashina no Takako, còn được biết đến với cái
, thông gọi , là Hoàng hậu của Thiên hoàng Go-Reizei. Bà là con gái lớn của Fujiwara no Yorimichi với Fujiwara no Gishi. Fujiwara no Morozane là anh trai cùng mẹ của bà. ##
là một nhân vật quyền lực của triều đình Nhật Bản sống vào thời kỳ Asuka và Nara. Ông là con trai thứ hai của Fujiwara no Kamatari (có giả thuyết cho rằng ông là
là vị quan nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Dưới sự lãnh đạo của ông, gia tộc Fujiwara đã nắm quyền kiểm soát nền chính trị đất nước trong một thời gian dài. ##
, còn được biết đến với tên hiệu là Hoàng hậu của Thiên hoàng Go-Reizei. Tên húy của bà còn có thể được đọc là **_Yoshiko_**. ## Tiểu sử ### Đầu đời Hoàng hậu Kanshi
là một chính khách, cận thần và chính trị gia Nhật Bản trong thời kỳ Heian. Ông còn được biết đến với thụy hiệu _Trinh Tín Công_ (貞信公) hoặc biệt danh _Tiểu Nhất Điều Điện_
, là một vị Hoàng hậu của Nhật Bản. Bà là chính phi của Thiên hoàng Murakami. Bà là con gái của Fujiwara no Morosuke (藤原師輔). Fujiwara no Anshi đã nhận trách nhiệm chưởng quản
là Hoàng hậu của Thiên hoàng Ichijō. Bà xuất hiện trong tác phẩm văn học kinh điển là _Truyện gối đầu_ được viết bởi nữ văn sĩ cung đình là Sei Shōnagon. Bà là con
nhỏ|[[Murasaki Shikibu đã viết tác phẩm nhật ký của mình trong khoảng thời gian từ năm . Bà đã được mô tả trong bức vẽ năm của Komatsuken.]] là một tiêu đề chung cho tất
, thông gọi , là một vị Hoàng hậu của Nhật Bản. Bà là phối ngẫu của anh em họ mình là Thiên hoàng Go-Reizei, và là con gái lớn của Thiên hoàng Go-Ichijō với
là nhà thơ _waka_ Nhật Bản sống vào thời đầu thế kỉ thứ 11 Một trong những bài thơ của bà nằm trong tập thơ nổi tiếng _Ogura Hyakunin Isshu_. ## Tiểu sử Bà
nhỏ|211x211px|Ise no Taifu, trong tập _[[Ogura Hyakunin Isshu_.]] là nhà thơ _waka_ Nhật Bản, hoạt động tích cực vào tiền bán thế kỉ thứ 11. Ông nội của bà là Ōnakatomi no Yoshinobu cũng là
* Đông Tam Điều viện (Higashi-sanjō In (東三条院): tức Fujiwara no _Senshi_ (藤原詮子) - phối ngẫu của Thiên hoàng En'yū * Thượng Đông Môn viện (Jōtō-mon In (上東門院): tức Fujiwara no _Shōshi_ (藤原彰子) (988-1074) -
là Thiên hoàng thứ 66 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Nhất Điều kéo dài từ năm 986 đến năm 1011. ## Tường thuật truyền thống Trước khi
**Hoa Sơn Thiên hoàng** (花山 Kazan- Tenno, 29 tháng 11 năm 968 - 17 Tháng 3 năm 1008) là Thiên hoàng thứ 65 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại
là thiên hoàng thứ 74 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại Toba của kéo dài từ năm 1107 đến năm 1123. ## Tường thuật truyền thống Thiên hoàng Toba
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
nhỏ|292x292px| Akazome Emon trong bản vẽ năm 1765, vẽ bởi [[Komatsuken.]] là một nữ thi sĩ _waka_ của Nhật Bản và là nhân vật lịch sử sống ở giữa thời kỳ Heian. Bà được liệt
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
là Thiên hoàng thứ 97 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa ngôi vua truyền thống. Ông trị vì một nửa đất nước tại miền Nam (miền Yoshino) từ năm 1336 đến năm 1368.
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
là một cuộn tranh (cuộn tranh truyền thống của Nhật Bản) được vẽ vào giữa thế kỉ 13. Bên cạnh việc lấy cảm hứng từ cuốn nhật ký riêng tư () của Murasaki Shikibu, một
là Thiên hoàng thứ 68 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại Hậu Nhất Điều của kéo dài từ năm 1016 đến năm 1036. ## Tường thuật truyền thống Trước
(6 tháng 2 năm 885 – 23 tháng 10 năm 930) là vị thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông trị vì từ năm 897 đến 930,
là Thiên hoàng thứ 62 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Húy Thành Minh (Nariakira). Triều đại của Murakami kéo dài từ năm 946 cho đến khi ông chết vào năm
là Thiên hoàng thứ 55 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa ngôi vua truyền thống Triều đại của Montoku của kéo dài từ 850 đến 858. ## Tường thuật truyền thống Trước khi
, ( 966–1017/1025) là một tác giả, nhà thơ người Nhật, và là nữ quan trong phủ của Hoàng hậu Teishi (Sadako) vào khoảng năm 1000, giữa thời kỳ Heian. Bà là tác giả của
là Thiên hoàng thứ 70 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Go-Reizei kéo dài trong những năm 1045-1068. ## Tường thuật truyền thống Trước khi lên ngôi, ông
là Thiên hoàng thứ 69 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Go-Suzaku kéo dài từ năm 1036 đến năm 1045. ## Tường thuật truyền thống Trước khi lên
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
là vị Thiên hoàng thứ 82 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông ở ngôi từ năm 1183 đến năm 1198. Thụy hiệu của vị Thiên hoàng ở thế kỷ XII
Izumi Shikibu trong một bức họa là nữ sĩ nổi tiếng của Nhật Bản thời Heian. Một trong 36 ca tiên trong văn học cổ Nhật Bản. ## Cuộc đời Bà là thi nhân waka
**Chương Tử** (_chữ Hán_:章子) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Chương Tử là thụy hiệu của Vương Thừa đời nhà