✨Đạo luật Smith xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản

Đạo luật Smith xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản

Vụ xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản theo Đạo luật Smith ở thành phố New York từ năm 1949 đến năm 1958 là kết quả các cuộc truy tố của chính quyền liên bang Hoa Kỳ trong thời kỳ hậu chiến và Chiến tranh Lạnh. Các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ (CPUSA) bị cáo buộc vi phạm Đạo luật Smith, một đạo luật nghiêm cấm chủ trương bạo lực lật đổ chính quyền. Các bị cáo lập luận rằng họ ủng hộ một quá trình chuyển tiếp ôn hòa lên xã hội chủ nghĩa xã hội và rằng đảm bảo về quyền tự do ngôn luận và tự do hiệp hội của Tu chính án 1 Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ tư cách thành viên của họ trong một đảng chính trị. Kháng cáo từ các phiên tòa này được gửi lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, nơi đã ra phán quyết trong Dennis v. United States (1951) và Yates v. United States (1957).

Phiên tòa xét xử 11 lãnh đạo đảng cộng sản đầu tiên được tổ chức tại New York vào năm 1949, một trong những phiên tòa kéo dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Hàng ngày, nhiều người ủng hộ các bị cáo biểu tình bên ngoài tòa án. Phiên tòa hai lần xuất hiện trên trang bìa của tạp chí Time. Bên bào chữa thường xuyên phản kháng lại thẩm phán và bên khởi tố; năm bị cáo vào tù vì tội coi thường tòa án, gián đoạn quá trình tố tụng. Bên khởi tố dựa vào những người cung cấp bí mật, những người mô tả mục tiêu của CPUSA, diễn giải các văn bản cộng sản và làm chứng rằng CPUSA chủ trương bạo lực lật đổ chính quyền.

Trong khi phiên tòa đầu tiên diễn ra, các sự kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về chủ nghĩa cộng sản: Liên Xô thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên, và phe cộng sản giành chiến thắng trong Nội chiến Trung Quốc. Trong giai đoạn này, House Un-American Activities Committee (HUAC) cũng đã bắt đầu tiến hành các cuộc điều tra và xét xử các biên kịch và nhà sản xuất ở Hollywood nghi ngờ có ảnh hưởng cộng sản. Dư luận phản đối các bị cáo ở New York. Sau 10 tháng xét xử, bồi thẩm đoàn tuyên tất cả 11 bị cáo đều có tội. Thẩm phán đã kết án các bị cáo lên đến 5 năm trong nhà tù liên bang, và kết án tù cả 5 luật sư bào chữa vì tội khinh thường tòa án. Hai trong số các luật sư sau đó đã bị tước giấy phép hành nghề.

Sau phiên tòa đầu tiên, các công tố viênđược thúc đẩy bởi các thành công ban đầutruy tố bổ sung hơn 100 lãnh đạo CPUSA vì vi phạm Đạo luật Smith. Một số bị xét xử chỉ vì là đảng viên. Nhiều bị cáo gặp khó khăn trong việc tìm luật sư đại diện. Các vụ xét xử đã loại bỏ các lãnh đạo CPUSA. Năm 1957, 8 năm sau phiên tòa đầu tiên, phán quyết Yates của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã chấm dứt các vụ truy tố tương tự. Theo đó, các bị cáo chỉ có thể bị truy tố khi phạm tội, không phải do niềm tin chính trị.

Bối cảnh

thumb|right|alt=Tranh biếm họa chính trị cho thấy một người đi xuống các bước từ "đình công" đến "hỗn loạn"|Tranh biếm họa chính trị năm 1919, phản ánh nỗi sợ hãi của Hoa Kỳ về [[Bolshevik|chủ nghĩa Bolshevik và chủ nghĩa vô trị trong Cuộc khủng hoảng đỏ lần thứ nhất.]]

Sau cuộc cách mạng ở Nga năm 1917, phong trào cộng sản dần có chỗ đứng ở nhiều nước trên thế giới. Ở châu Âu và Mỹ, các đảng cộng sản được thành lập, thường liên minh với các công đoàn và phong trào lao động. Trong Cuộc khủng hoảng đỏ lần thứ nhất 1919–1920, nhiều nhà tư bản Hoa Kỳ lo sợ rằng chủ nghĩa Bolshevik và chủ nghĩa vô trị sẽ dẫn đến hỗn loạn trong nước. Vào cuối những năm 1930, các cơ quan lập pháp tiểu bang và liên bang đã thông qua các luật được thiết kế nhằm vạch mặt những người cộng sản, bao gồm luật yêu cầu tuyên thệ trung thành và yêu cầu những người cộng sản phải đăng ký với chính phủ. Ngay cả Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ (ACLU), một tổ chức ủng hộ tự do ngôn luận, cũng thông qua một nghị quyết vào năm 1939 loại bỏ những người cộng sản ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo.

Sau cuộc điều tra của Quốc hội về các nhóm chính trị cực tả và cực hữu vào giữa những năm 1930, ủng hộ cho việc cấm hoạt động các nhóm này ngày càng gia tăng. Hiệp ước Xô-Đức vào tháng 8 năm 1939 và cuộc xâm lược Ba Lan vào tháng 9 càng tạo thêm động lực. Năm 1940, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Đăng ký Nước ngoài (Alien Registration Act) năm 1940 (được gọi là Đạo luật Smith) yêu cầu tất cả người thường trú trưởng thành phải đăng ký với chính phủ, và hình sự hóa việc cố ý vận động lật đổ hoặc phá hủy bất kỳ chính phủ nào tại Hoa Kỳ bằng vũ lực. Năm triệu người không phải là công dân đã được lấy dấu vân tay và đăng ký sau khi Đạo luật được thông qua. Những người đầu tiên bị kết án theo Đạo luật Smith là thành viên của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa (Socialist Workers Party, SWP) ở Minneapolis vào năm 1941. Các nhà lãnh đạo của CPUSA, vốn là đối thủ của SWP theo Chủ nghĩa Trotsky, đã ủng hộ việc truy tố nàymột quyết định mà sau này họ sẽ hối hận. Năm 1943, chính phủ sử dụng Đạo luật Smith để truy tố những thành viên quốc xã Mỹ; phiên tòa đã không thể đi đến phán quyết cuối cùng do khi thẩm phán chết vì một cơn đau tim. Lo lắng làm đồng minh khi đó là Liên Xô tức giận, chính quyền Hoa Kỳ đã không truy tố bất kỳ người cộng sản nào theo Đạo luật này trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào cuối năm 1945, một người theo đường lối cứng rắn William Z. Foster lên nắm quyền lãnh đạo CPUSA và chỉ đạo đảng hướng theo các chính sách của Stalin.

Nhận thức về chủ nghĩa cộng sản ở Hoa Kỳ được định hình bởi Chiến tranh Lạnh, bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi Liên Xô không duy trì các cam kết đưa ra tại Hội nghị Yalta. Thay vì tổ chức bầu cử các chính phủ mới như đã thỏa thuận tại Yalta, Liên Xô chiếm đóng một số nước Khối phía Đông, dẫn đến mối quan hệ căng thẳng với Hoa Kỳ. Các sự kiện quốc tế tiếp theo làm gia tăng mối nguy hiểm rõ ràng mà chủ nghĩa cộng sản gây ra cho Mỹ: các mối đe dọa từ chủ nghĩa Stalin trong Nội chiến Hy Lạp (1946–1949); Đảo chính Tiệp Khắc năm 1948; và cuộc phong tỏa Berlin năm 1948.

Nhận thức về chủ nghĩa cộng sản cũng bị ảnh hưởng bởi bằng chứng về các hoạt động gián điệp của đặc vụ Liên Xô ở Hoa Kỳ. Năm 1945, một điệp viên Liên Xô, Elizabeth Bentley, cung cấp danh sách các điệp viên Liên Xô ở Mỹ cho Cục Điều tra Liên bang (FBI). FBI cũng có truy cập các thông tin liên lạc bí mật của Liên Xô, có được từ nỗ lực giải mã Venona, cho thấy những nỗ lực đáng kể của các đặc vụ Liên Xô nhằm thực hiện hoạt động gián điệp bên trong Hoa Kỳ. Ảnh hưởng ngày càng tăng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới và các bằng chứng về gián điệp Liên Xô thúc đẩy Bộ Tư phápđi đầu là FBIbắt đầu một cuộc điều tra về những người cộng sản ở Hoa Kỳ.

Phiên xét xử năm 1949

thumb|right|alt=Chân dung một người đàn ông đang đứng cầm giấy tờ|[[J. Edgar Hoover]]

Vào tháng 7 năm 1945, giám đốc FBI J. Edgar Hoover chỉ thị các đặc vụ bắt đầu thu thập thông tin về đảng viên CPUSA để đưa ra bằng chứng ủng hộ phân tích rằng đảng có ý định lật đổ chính quyền, dẫn đến một báo cáo dài 1.850 trang công bố năm 1946 hỗ trợ việc truy tố. Khi Chiến tranh Lạnh tiếp tục gia tăng vào năm 1947, Quốc hội Hoa Kỳ đã tổ chức một cuộc điều trần mà tại đó 10 biên kịch và đạo diễn Hollywood từ chối chứng thực cáo buộc dính líu tới CPUSA. Họ bị kết tội khinh thường Quốc hội vào đầu năm 1948. Cùng năm đó, Hoover chỉ đạo Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đưa ra cáo buộc chống lại các lãnh đạo CPUSA với ý định vô hiệu hóa hoạt động của Đảng. John McGohey, một công tố viên liên bang từ Tòa án Quận phía Nam New York (Southern District of New York), được giao vai trò chính trong việc khởi tố vụ án và buộc tội 12 lãnh đạo của CPUSA vi phạm Đạo luật Smith. Các cáo buộc cụ thể là âm mưu lật đổ chính quyền Hoa Kỳ bằng các biện pháp bạo lực, và thuộc một tổ chức chủ trương bạo động lật đổ chính phủ. Mười hai bị cáo, bị bắt vào cuối tháng 7 năm 1948, đều là thành viên của Ủy ban Quốc gia CPUSA:

thumb|right|alt=11 người đàn ông ăn mặc đẹp, ngồi chụp ảnh trang trọng.|Các bị cáo. Hàng sau (từ trái sang phải): Stachel, Potash, Winter, Davis, Gates, Green. Hàng trước: Thompson, Winston, Dennis, Hall, Williamson. Không xuất hiện: Foster (không bị xét xử do bệnh tật).

  • Benjamin J. Davis, Jr. - Chủ tịch Ủy ban Lập pháp của CPUSA và thành viên Hội đồng Thành phố New York
  • Eugene Dennis - Tổng bí thư CPUSA
  • William Z. Foster - Bí thư Quốc gia CPUSA (bị truy tố; không bị xét xử do bệnh tật)
  • John Gates - Trưởng Đoàn Thanh niên Cộng sản
  • Gil Green - Thành viên của Hội đồng Quốc gia (do AJ Isserman đại diện)
  • Gus Hall - Thành viên của Hội đồng Quốc gia CPUSA
  • Irving Potash - Quan chức Furriers Union
  • Jack Stachel - Biên tập viên Daily Worker
  • Robert G. Thompson - Trưởng chi nhánh CPUSA tại New York
  • John Williamson - Thành viên của Ủy ban Trung ương CPUSA (do AJ Isserman đại diện)
  • Henry Winston - Thành viên của Hội đồng Quốc gia CPUSA
  • Carl Winter - Trưởng chi nhánh CPUSA tại Michigan

Hoover hy vọng rằng tất cả 55 thành viên của Ủy ban Quốc gia CPUSA sẽ bị truy tố và thất vọng vì các công tố viên chỉ chọn 12 người. Một tuần trước vụ bắt giữ, Hoover đã khiếu nại với Bộ Tư phápnhắc lại các vụ bắt giữ và kết án hơn một trăm lãnh đạo của Industrial Workers of the World (IWW) vào năm 1917"IWW đã bị nghiền nát và không bao giờ hồi sinh, hành động tương tự vào thời điểm này sẽ có hiệu quả chống lại Đảng Cộng sản."

Bắt đầu xét xử

thumb|right|alt=Một tòa nhà lớn, trang nghiêm|Phiên tòa năm 1949 được tổ chức ở [[:en:Thurgood Marshall United States Courthouse|Tòa án Liên bang Quảng trường Foley ở Manhattan.]]

Phiên tòa năm 1949 được tổ chức tại Tòa án Liên bang Quảng trường Foley thuộc Tòa án Quận phía Nam New York. Thẩm phán Harold Medina, cựu giáo sư Đại học Columbia, người được chỉ thị trong 18 tháng khi phiên điều trần bắt đầu, chủ tọa. Trước khi trở thành thẩm phán, Medina đã biện hộ thành công vụ Cramer v. United States trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, bào chữa cho một người Mỹ gốc Đức bị cáo buộc phản quốc. Vào thời điểm năm 1949, đây là phiên tòa liên bang dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Đây là một trong những thủ tục pháp lý gây tranh cãi nhất của đất nước và đôi khi có "bầu không khí giống như rạp xiếc". Bốn trăm cảnh sát đã được cử đến hiện trường vào ngày khai mạc phiên tòa.

Dư luận

Dư luận Hoa Kỳ và các phương tiện thông tin đại chúng đều ủng hộ việc kết án. Các tạp chí, báo, đài đã đưa tin về vụ này rất nhiều; Time đã đăng phiên tòa hai lần lên trang bìa với tiêu đề "Communists: The Presence of Evil" và "Communists: The Little Commissar" (ám chỉ Eugene Dennis). The New York Times, trong một bài xã luận, cảm thấy rằng phiên tòa được bảo đảm và bác bỏ những khẳng định của Đảng rằng phiên tòa là một sự khiêu khích có thể so sánh với vụ hỏa hoạn Reichstag. The Christian Science Monitor đã đưa ra quan điểm khách quan hơn trong một bài xã luận: "Kết quả của vụ xét xử sẽ được chính phủ và các đảng phái chính trị trên toàn thế giới theo dõi về cách Hoa Kỳ, với tư cách là một điển hình xuất sắc của chính phủ dân chủ, định chia sẻ lợi ích các quyền tự do dân sự và bảo vệ những điều này nếu và khi những điều đó bị kẻ thù lạm dụng từ bên trong". Đáp lại, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua dự luật vào tháng 8 để cấm hoạt động biểu tình gần các tòa án liên bang, nhưng Thượng viện Hoa Kỳ đã không bỏ phiếu trước khi phiên tòa kết thúc. Nhà báo William L. Shirer tỏ ra nghi ngờ về phiên tòa, viết rằng "không có hành động công khai cố gắng lật đổ chính phủ của chúng ta bị buộc tội . . . Việc tố tụng của chính quyền chỉ đơn giản là với tư cách là thành viên và lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là bản thân các học thuyết và chiến thuật, thì bị cáo đã phạm tội âm mưu ". Ứng cử viên tổng thống độc lập Henry A. Wallace tuyên bố rằng phiên tòa là một nỗ lực của chính quyền Truman nhằm tạo ra một bầu không khí sợ hãi, viết rằng "người Mỹ chúng tôi sợ hãi về những hành động nhằm đàn áp tự do chính trị hơn là thuyết giảng về những quan điểm mà chúng tôi không đồng ý." Farrell Dobbs của SWP đã viếtmặc dù thực tế là CPUSA đã ủng hộ việc truy tố Dobbs theo Đạo luật Smith năm 1941"Tôi muốn khẳng định chắc chắn rằng tôi cũng như Đảng Công nhân Xã hội ủng hộ cuộc đấu tranh của họ chống lại Đạo luật Smith đáng ghét, cũng như chống lại các cáo buộc theo đạo luật đó".

Trước khi phiên tòa bắt đầu, những người ủng hộ các bị cáo đã quyết định một chiến dịch viết thư và biểu tình: CPUSA kêu gọi các thành viên gửi dồn dập Truman những lá thư yêu cầu bỏ cáo buộc. Sau đó, những người ủng hộ tương tự đã tràn ngập Thẩm phán Medina với các bức điện và thư thúc giục ông bác bỏ các cáo buộc.

Bên biện hộ không lạc quan về khả năng thành công. Sau khi phiên tòa kết thúc, bị cáo Gates viết: "Sự cuồng loạn chống cộng rất dữ dội, và hầu hết người Mỹ sợ hãi trước vấn đề Cộng sản, đến nỗi chúng tôi đã bị kết án trước khi phiên tòa bắt đầu".

Truy tố

Công tố viên John McGohey không khẳng định rằng các bị cáo có một kế hoạch cụ thể để lật đổ chính quyền Hoa Kỳ một cách bạo lực, mà chỉ cáo buộc rằng triết lý của CPUSA nói chung chủ trương bạo lực lật đổ chính phủ. Các nhân chứng đã làm chứng về các mục tiêu và chính sách của CPUSA, đồng thời diễn giải tuyên bố của các tác phẩm (bao gồm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) của các tác giả như Karl Marx và Joseph Stalin. Bên công tố lập luận rằng các văn bản ủng hộ cách mạng bạo lực, và bằng cách sử dụng các văn bản làm nền tảng chính trị, các bị cáo đã phạm tội chủ trương bạo lực lật đổ chính phủ. Cô đã nhận lương từ FBI trong suốt 7 năm làm công việc cung cấp thông tin. Cô ấy làm chứng rằng CPUSA tán thành cuộc cách mạng bạo lực chống lại chính phủ và CPUSAhành động theo hướng dẫn từ Moskvađã cố gắng tuyển dụng các thành viên làm việc trong các ngành chiến tranh then chốt.

Budenz, một cựu cộng sản, là một nhân chứng quan trọng khác cho vụ truy tố, người đã làm chứng rằng CPUSA áp dụng triết lý bạo động lật đổ chính quyền. Ông cũng làm chứng rằng các điều khoản từ chối bạo lực trong hiến pháp CPUSA là mồi nhử được viết bằng "ngôn ngữ Aesopian" được thiết kế đặc biệt để bảo vệ CPUSA khỏi bị truy tố. Bị cáo Eugene Dennis tự đại diện cho bản thân. ACLU bị chi phối bởi các nhà lãnh đạo chống cộng trong những năm 1940, và không nhiệt tình ủng hộ những người bị truy tố theo Đạo luật Smith; nhưng đã gửi một bản amicus curiae tán thành đề nghị bác bỏ các cáo buộc.

Bên bào chữa áp dụng chiến lược ba chính. Thứ nhất, họ tìm cách cho thấy CPUSA như một đảng chính trị thông thường, thúc đẩy chủ nghĩa xã hội bằng các biện pháp hòa bình; thứ hai, họ công kích phiên tòa như một cuộc liên doanh tư bản không bao giờ có thể mang lại một kết quả công bằng cho các bị cáo vô sản; và thứ ba, họ sử dụng phiên tòa như một cơ hội để công khai các chính sách của CPUSA.

Bên bào chữa đưa ra các động thái trước khi xét xử, lập luận rằng quyền xét xử của bị cáo bởi một bồi thẩm đoàn cùng địa vị xã hội đã bị từ chối bởi vì vào thời điểm đó, một đại bồi thẩm đoàn tiềm năng phải đáp ứng yêu cầu tài sản tối thiểu, loại bỏ một cách hiệu quả những người ít giàu có. Bên bào chữa cũng cho rằng quy trình lựa chọn bồi thẩm đoàn cho phiên tòa cũng có sai sót tương tự. Sự phản đối đối với quá trình lựa chọn bồi thẩm đoàn đã không thành công và bồi thẩm đoàn bao gồm bốn người Mỹ gốc Phi, chủ yếu là các công dân thuộc tầng lớp lao động.

Một chủ đề bào chữa chính là CPUSA đã tìm cách đưa Hoa Kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng giáo dục chứ không phải bằng vũ lực. Bên bào chữa cho rằng hầu hết các bằng chứng tài liệu của bên công tố đến từ các văn bản cũ trước Đại hội Thế giới lần thứ bảy năm 1935 của Đệ Tam Quốc tế, sau đó CPUSA bác bỏ bạo lực như một phưong thức thay đổi. Bên bào chữa đã cố gắng đưa các tài liệu làm bằng chứng đại diện cho chủ trương hòa bình của CPUSA, tuyên bố rằng các chính sách này thay thế các văn bản cũ hơn mà bên công tố đã đưa ra nhấn mạnh bạo lực.

Các luật sư bào chữa đã phát triển một chiến lược "phòng vệ lao động" ("labor defense"), theo đó tấn công vào toàn bộ quá trình xét xử, bao gồm cả công tố viên, thẩm phán và quá trình lựa chọn bồi thẩm đoàn. Chiến lược liên quan đến việc chỉ trích thẩm phán và các công tố viên bằng lời nói, và có thể là một nỗ lực để khiến đoàn hội thẩm không đưa ra được quyết định cuối cùng. Một khía cạnh khác của biện hộ lao động là nỗ lực tập hợp sự ủng hộ của quần chúng để giải phóng các bị cáo, với hy vọng rằng áp lực của công chúng sẽ giúp họ trắng án. Bị cáo Dennis đã chọn đại diện cho chính mình để có thể, với vai trò là luật sư, trực tiếp phát biểu trước bồi thẩm đoàn và giải thích các nguyên tắc cộng sản. Bất chấp các chiến thuật phòng thủ tích cực và một chiến dịch viết thư khổng lồ nhắm vào Medina, ông tuyên bố "Tôi sẽ không bị đe dọa". Từ sự hỗn loạn, một bầu không khí "thù địch lẫn nhau" đã nảy sinh giữa thẩm phán và các luật sư. Nhiều lần vào tháng 7 và tháng 8, thẩm phán buộc tội các luật sư bào chữa coi thường tòa án, và nói rằng hình phạt sẽ được thực thi khi phiên tòa kết thúc.

Thẩm phán James L. Oakes mô tả Medina là một thẩm phán công bằng và hợp lý, và viết rằng "sau khi thẩm phán nhìn thấy những gì các luật sư đang làm, ông ấy cũng cho họ nếm trải điều đó." Học giả pháp lý và nhà sử học Michal Belknap viết rằng Medina "không thân thiện" với bên bào chữa, và "có lý do để tin rằng Medina có thành kiến với các bị cáo", trích dẫn một tuyên bố của Medina trước phiên tòa: "Nếu chúng tôi để họ làm điều đại loại như thế là [hoãn phiên tòa bắt đầu], họ sẽ phá hủy chính phủ". Theo Belknap, hành vi của Medina đối với bên bào chữa có thể đã trở nên trầm trọng hơn bởi thực tế là một thẩm phán liên bang khác đã qua đời vì đau tim trong phiên tòa năm 1943 liên quan đến Đạo luật Smith. Một số nhà sử học suy đoán Medina tin rằng bên bào chữa đang cố tình kích động ông phạm lỗi pháp lý với mục đích vô hiệu phiên tòa.]]

Trong suốt 10 tháng xét xử, một số sự kiện đã xảy ra ở Mỹ làm tăng cường tình cảm chống cộng: vụ gián điệp Liên Xô Judith Coplon được tiến hành; cựu nhân viên chính phủ Alger Hiss đã bị xét xử vì tội khai man xuất phát từ cáo buộc rằng ông là một người cộng sản (một phiên tòa cũng được tổ chức tại tòa án Quảng trường Foley); lãnh đạo lao động Harry Bridges bị buộc tội khai man khi phủ nhận là cộng sản; và ACLU đã thông qua một nghị quyết chống cộng. Hai sự kiện trong tháng cuối cùng của phiên tòa có thể có ảnh hưởng đặc biệt: vào 23 tháng 9 năm 1949, Truman thông báo rằng Liên Xô đã cho nổ quả bom hạt nhân đầu tiên; và vào 1 tháng 10 năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giảnh chiến trong Nội chiến Trung Quốc. Hơn 140 người bị thương, bao gồm cả Potash, mắt ông bị thủy tinh đâm từ kính chắn gió vỡ. Phiên tòa đã bị đình chỉ trong hai ngày trong khi Potash bình phục vết thương.

Kết án

thumb|right|alt=Một số sĩ quan cảnh sát cưỡi ngựa xem một đám đông lớn đang đứng trong một công viên công cộng.|Những người ủng hộ bị cáo, những người theo dõi và cảnh sát bên ngoài tòa án Quảng trường Foley trong phiên tòa năm 1949.

Vào 14 tháng 10 năm 1949, sau khi bên bào chữa hoàn thành phần biện hộ, thẩm phán hướng dẫn bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết. Ông hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng việc truy tố không bắt buộc phải chứng minh rằng nguy cơ bạo lực là "rõ ràng và hiện hữu" ("clear and present"); thay vào đó, bồi thẩm đoàn nên xem xét liệu các bị cáo có ủng hộ chính sách cộng sản như một "quy tắc hoặc nguyên tắc hành động" với ý định kích động lật đổ bằng bạo lực "càng nhanh càng tốt nếu hoàn cảnh cho phép". Sau khi cân nhắc trong bảy tiếng rưỡi, bồi thẩm đoàn đã tuyên trả lại các bản án có tội đối với tất cả 11 bị cáo. Thẩm phán đã kết án 10 bị cáo 5 năm tù và phạt $10,000 mỗi bị cáo ($ vào năm ). Bị cáo thứ 11, Robert G. Thompsonmột cựu binh Chiến tranh thế giới thứ haichỉ bị kết án ba năm dựa trên những cống hiến thời chiến. Thompson nói rằng ông "không lấy làm vui mừng khi sự thất thường của tư pháp Phố Wall đã thấy phù hợp khi đánh đồng việc tôi sở hữu Distinguished Service Cross với hai năm tù."

Ngay sau khi bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết, Medina quay sang các luật sư bào chữa nói rằng ông có một số "việc chưa hoàn thành" và buộc tội họ khinh thường tòa án, và kết án tất cả với các án tù từ 30 ngày đến 6 tháng; Dennis, với tư cách là luật sư của chính mình, cũng bị triệu tập. Vì các bản án khinh thường dựa trên chứng kiến của thẩm phán, không cần xét xử, và các luật sư ngay lập tức bị còng tay và dẫn vào tù.

Phản ứng công chúng

Đại đa số công chúng và hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng đều tán thành phán quyết. Ngày kết án, Thống đốc New York. Thomas E. Dewey và Thượng nghị sĩ John Foster Dulles ca ngợi các phán quyết.

Một số người ủng hộ các bị cáo đã lên tiếng bênh vực. Một người dân New York viết: "Tôi không sợ cộng sản ... Tôi chỉ sợ xu hướng ở nước ta ngày nay xa rời các nguyên tắc dân chủ." Một người khác viết: "phiên tòa là một phiên tòa chính trị ... Chẳng phải Liên Xô đã khơi dậy nỗi sợ hãi trên thế giới nói chung chính xác bởi vì nhiều người không tin tưởng vào công lý của các thủ tục hình sự chống lại những người bất đồng chính kiến ... Tôi tin tưởng rằng Tối cao Pháp viện sẽ có thể sửa chữa một sai sót nghiêm trọng trong hoạt động của bộ máy chính trị của chúng ta bằng cách cho rằng ... dự luật Smith vi hiến." William Z. Foster đã viết: "mọi phong trào dân chủ ở Hoa Kỳ đều bị đe dọa bởi bản án phản động này ... Đảng Cộng sản sẽ không mất tinh thần trước bản án đầy tai tiếng này, vốn làm mất đi truyền thống dân tộc dân chủ của chúng ta. Đảng sẽ đưa cuộc đấu tranh lên các tòa án cấp cao hơn, tới đông đảo quần chúng nhân dân." Báo chí Matxcơva viết rằng Medina thể hiện "thành kiến phi thường"; tờ báo cộng sản Luân Đôn viết rằng các bị cáo chỉ bị kết tội "là cộng sản"; và ở Pháp, một tờ báo đã chỉ trích các kết án là "một bước trên con đường dẫn đến chiến tranh." Thẩm phán Medina được ca ngợi như một anh hùng dân tộc và nhận được 50.000 bức thư chúc mừng về kết quả phiên tòa. Vào ngày 24 tháng 10, tạp chí Time đưa Medina trên trang bìa, và ngay sau đó ông được yêu cầu xem xét tranh cử chức thống đốc New York. Vào ngày 11 tháng 6 năm 1951, Truman đề cử Medina vào Tòa Phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực 2, nơi ông phục vụ cho đến năm 1980. Khi được tại ngoại, Hall được bổ nhiệm vào một vị trí trong ban thư ký của CPUSA. Eugene Dennisngoài các cáo buộc theo Đạo luật Smithchống lại cáo buộc khinh thường Quốc hội từ năm 1947 khi từ chối xuất hiện trước House Un-American Activities Committee. Dennis kháng cáo cáo buộc khinh thường, nhưng Tối cao Pháp viện vẫn giữ nguyên phán quyết vào tháng 3 năm 1950, và ông phải chịu một năm tù vào thời điểm đó.

Trong khi chờ đợi các kháng nghị pháp lý được xét xử, các nhà lãnh đạo CPUSA trở nên thuyết phục rằng chính phủ sẽ tiến hành truy tố bổ sung nhiều cán bộ Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo liên tục, họ quyết định rằng 4 trong số các bị cáo nên đi trốn và lãnh đạo CPUSA từ bên ngoài nhà tù. Các bị cáo được lệnh vào tù vào ngày 2 tháng 7 năm 1951, sau khi Tối cao Pháp viện giữ nguyên bản án và các kháng cáo pháp lý đã hết.

Nhận thức về chủ nghĩa cộng sản sau phiên tòa

thumb|right|upright|alt=Chân dung người đàn ông mặc vest.|Thượng nghị sĩ [[Joseph McCarthy là một người chống cộng nổi tiếng.]]

Sau phán quyết, Chiến tranh Lạnh vẫn tiếp tục trên trường quốc tế. Vào tháng 12 năm 1950, Truman ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia để đối phó với Chiến tranh Triều Tiên.

Trong nước, Chiến tranh Lạnh đã đi đầu trong ý thức dân tộc. Vào tháng 2 năm 1950, Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy bất ngờ nổi tiếng toàn quốc khi tuyên bố có trong tay danh sách hơn 200 người cộng sản làm việc trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Vào tháng 9 năm 1950, Quốc hội đã thông qua Đạo luật An ninh Nội bộ McCarran (McCarran Internal Security Act), trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải đăng ký với chính phủ và thành lập Ban Kiểm soát Các hoạt động Lật đổ (Subversive Activities Control Board) để điều tra những người bị nghi ngờ tham gia vào các hoạt động lật đổ. Các phiên điều trần cấp cao liên quan đến những người bị cáo buộc là cộng sản bao gồm Alger Hiss bị kết án năm 1950, vụ xét xử năm 1951 đối với Rosenbergs và cuộc điều tra năm 1954 đối với Robert Oppenheimer. Anh ta làm chứng rằng có 21.105 người tiềm năng có thể bị truy tố theo Đạo luật Smith và 12.000 người trong số đó sẽ bị truy tố nếu Đạo luật Smith được duy trì là hợp hiến. 7 tháng sau phán quyết, vào tháng 5 năm 1950, Hoover đưa ra một sóng radio trong đó ông tuyên bố "những người cộng sản đã và đang hoạt động ngày nay ngay trong cửa ngõ nước Mỹ.... Dù ở đâu, họ đều có chung một tham vọng thâm độc: làm suy yếu và cuối cùng phá hủy nền dân chủ Mỹ bằng cách lén lút và xảo quyệt."

Các cơ quan chính phủ liên bang khác cũng có nỗ lực để phá hoại các tổ chức, chẳng hạn như CPUSA, mà họ coi là có ý định lật đổ: IRS điều tra 81 tổ chức bị coi là có ý định lật đổ chính quyền, đe dọa hủy bỏ tình trạng miễn thuế; Quốc hội đã thông qua luật cấm các thành viên của các tổ chức lật đổ nhận trợ cấp nhà ở liên bang; và các nỗ lực đã được thực hiện để từ chối trợ cấp An sinh xã hội, trợ cấp cựu chiến binh và trợ cấp thất nghiệp cho những người có cảm tình với cộng sản.

Kháng cáo phiên tòa năm 1949

Các bị cáo xét xử năm 1949 đã kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 vào năm 1950. Các lập luận về quyền tự do ngôn luận đưa ra các vấn đề hiến pháp quan trọng: họ khẳng định rằng vận động chính trị được Tu chính án thứ nhất bảo vệ, bởi vì CPUSA không ủng hộ bạo lực, mà thay vào đó chỉ quảng bá cách mạng như một khái niệm trừu tượng.

Tự do ngôn luận

Một trong những vấn đề chính được nêu ra khi kháng cáo là việc vận động chính trị của các bị cáo đã được Tu chính án thứ nhất bảo vệ, bởi vì CPUSA không ủng hộ bạo lực, mà thay vào đó chỉ quảng bá cách mạng như một khái niệm trừu tượng. Bắt nguồn từ thông luật của Anh, bài kiểm tra cấm một phát ngôn nếu có xu hướng gây tổn hại đến lợi ích công cộng.

Các cuộc biểu tình chống chiến tranh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm phát sinh một số trường hợp tự do ngôn luận liên quan đến dụ dỗ và kích động bạo lực. Trong vụ án Schenck v. United States năm 1919, Tối cao Pháp viện cho rằng một nhà hoạt động chống chiến tranh không có quyền lên tiếng phản đối dự thảo theo Tu chính án thứ nhất. Theo ý kiến đa số của mình, Justice Holmes đã đưa ra phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, một thứ trở thành một khái niệm quan trọng trong luật Tu chính án thứ nhất; nhưng vụ Schenck đã không chính thức áp dụng phép thử này. Mặc dù đôi khi được đề cập đến trong các phán quyết tiếp theo, phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu chưa bao giờ được Tối cao Pháp viện xác nhận như một phép thử được sử dụng bởi các tòa án cấp dưới khi đánh giá tính hợp hiến.

Tòa án tiếp tục sử dụng phép thử khuynh hướng xấu trong suốt đầu thế kỷ 20 trong các vụ như Abrams v. United States (1919), kết tội những nhà hoạt động phản chiến phát tờ rơi khuyến khích công nhân cản trở nỗ lực chiến tranh. Trong vụ Abrams, Holmes và Justice Brandeis đã xảy ra bất đồng và khuyến khích việc sử dụng phép thử rõ ràng và hiện hữu, vốn bảo vệ phát ngôn nhiều hơn. Trong vụ Gitlow v. New York (1925), tòa đã mở rộng Tu chính án thứ nhất cho các bang, và giữ nguyên kết tội Gitlow vì xuất bản "Tuyên ngôn Cánh tả". Vụ Gitlow được quyết định dựa trên phép thử khuynh hướng xấu, nhưng quyết định đa số thừa nhận tính hợp lệ của phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, thế nhưng kết luận rằng việc sử dụng chỉ giới hạn trong các tình huống giống như vụ Schenck mà không bị cấm cụ thể bởi luật. Brandeis và Holmes một lần nữa thúc đẩy phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, lần này là theo ý kiến đồng tình trong vụ Whitney v. California năm 1927. Đa số không áp dụng hoặc sử dụng thử nghiệm nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng ý kiến đồng tình khuyến khích Tòa án ủng hộ các biện pháp bảo vệ nhiều hơn cho lời nói và cho rằng "nguy hiểm trước mắt"hạn chế hơn là "nguy hiểm hiện hữu"nên được yêu cầu trước khi phát ngôn có thể bị cấm. Sau Whitney, phép thử khuynh hướng xấu tiếp tục được Tòa án sử dụng trong các trường hợp như Stromberg v. California (1931), cho rằng đạo luật của California năm 1919 cấm cờ đỏ là vi hiến.

Phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu đã được đa số viện dẫn trong Thornhill v. Alabama (1940), theo đó luật chống biểu tình của bang đã bị vô hiệu. Mặc dù Tòa án đã đề cập đến phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu trong một số quyết định sau Thornhill, phép thử khuynh hướng xấu không bị bác bỏ một cách rõ ràng,

Kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm Liên bang

Vào tháng 5 năm 1950, 1 tháng trước khi Tòa Phúc thẩm nghe tranh luận bằng miệng trong vụ CPUSA, Tối cao Pháp viện đã ra phán quyết về các vấn đề tự do ngôn luận trong vụ American Communications Association v. Douds. Trong vụ này, Tòa đã xem xét phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng bác bỏ vì quá máy móc và thay vào đó đưa ra phép thử cân bằng. Tòa Phúc thẩm Liên bang nghe tranh luận bằng miệng trong vụ CPUSA từ ngày 21 đến 23 tháng 6 năm 1950. 2 ngày sau, vào ngày 25 tháng 6, Hàn Quốc bị tấn công bởi các lực lượng cộng sản Triều Tiên, đánh dấu sự bắt đầu của Chiến tranh Triều Tiên. Trong suốt 2 tháng các thẩm phán tòa phúc thẩm hình thành ý kiến, Chiến tranh Triều Tiên tràn ngập các tờ báo. Vào ngày 1 tháng 8 năm 1950, Tòa Phúc thẩm nhất trí giữ nguyên bản án theo đánh giá do Thẩm phán Learned Hand viết. Thẩm phán Hand đã xem xét phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, nhưng đánh giá đã áp dụng một cách tiếp cận cân bằng tương tự như American Communications Association v. Douds. Trong bản đánh giá, Hand viết:

Bản đánh giá đặc biệt đề cập đến những nguy cơ đương thời của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, trong đó nhấn mạnh đến cuộc Cuộc phong tỏa Berlin.

Kháng cáo lên Tối cao Pháp viện

thumb|right|alt=Một bức chân dung trang trọng của một người đàn ông lớn tuổi, đang ngồi, mặc áo choàng tư pháp|Chánh án Fred M. Vinson viết đánh giá trong Dennis v. United States.

Các bị cáo đã kháng cáo quyết định của Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 lên Tối cao Pháp viện trong Dennis v. United States. Trong phiên phúc thẩm, các bị cáo đã được National Lawyers Guild và ACLU hỗ trợ. Vinson tán thành phương pháp cân bằng được sử dụng bởi thẩm phán Hand:

Vinson cũng giải quyết tranh cãi liệu Medina hướng dẫn bồi thẩm đoàn là đúng hay sai. Các bị cáo cho rằng tuyên bố của Medina rằng "theo quy định của pháp luật, có đủ nguy cơ về một tội ác thực chất mà Quốc hội có quyền ngăn chặn, để biện minh cho việc áp dụng quy chế theo Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp" là sai lầm, nhưng Vinson kết luận rằng các hướng dẫn là cách diễn giải thích hợp của Đạo luật Smith. Các thẩm phán Hugo Black và William O. Douglas không đồng tình với ý kiến đa số. Trong bản bất đồng chính kiến, Black viết "dư luận như bây giờ, rất ít người sẽ phản đối việc kết án những người đệ đơn Cộng sản này. Tuy nhiên, có hy vọng rằng, trong thời điểm bình tĩnh hơn, khi áp lực, đam mê và nỗi sợ hãi hiện tại giảm bớt, Tòa án hiện tại hoặc sau này sẽ khôi phục các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất về vị trí ưu tiên cao thuộc về một xã hội tự do." Sau phán quyết Dennis, Tòa án sử dụng phép thử cân bằng cho các trường hợp tự do ngôn luận, và hiếm khi sử dụng phép thử nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu.

Kháng cáo phán quyết khinh thường

Các luật sư bào chữa đã kháng cáo các bản án khinh thường đưa ra bởi Thẩm phán Medina theo Điều 42 Quy tắc tố tụng hình sự liên bang. Các luật sư đưa ra nhiều vấn đề khi kháng cáo, bao gồm cả hành vi sai trái có chủ đích của thẩm phán, và tuyên bố rằng họ đã bị tước quyền xét xử theo đúng thủ tục vì không có phiên điều trần để đánh giá giá trị của cáo buộc khinh thường. Họ lập luận rằng các cáo buộc khinh thường ngăn cản các bị cáo CPUSA trong tương lai có được luật sư tư vấn, bởi vì các luật sư sợ bị tư pháp trả đũa. Kháng cáo ban đầu lên Tòa Phúc thẩm Liên bang đã không thành công: Tòa án đã xem xét các hành động của Medina, và đảo ngược một số, nhưng vẫn khẳng định các bản án.

Các luật sư sau đó đã kháng cáo lên Tối cao Pháp viện, nơi bác bỏ đơn kiến nghị ban đầu, nhưng sau đó đã xem xét lại và chấp nhận kháng cáo. Tối cao Pháp viện đã giới hạn việc xem xét trong phạm vi câu hỏi, "liệu cáo buộc khinh thường, như và khi được chứng thực, là một điều mà thẩm phán buộc tội được cho phép theo Điều 42(a) để xác định và tự trừng phạt; hay đó là một điều bị xét xử và trừng phạt theo Điều 42(b) chỉ bởi một thẩm phán không phải là người buộc tội và chỉ sau khi thông báo, điều trần, và có cơ hội để bào chữa?".

Xét xử các cán bộ "cấp hai"

thumb|right|upright|alt=Hình ảnh một người phụ nữ ăn mặc trang trọng, ngồi, vào khoảng năm 1930.|Elizabeth Gurley Flynn là một trong những bị cáo cấp hai.

Sau phán quyết năm 1949, các công tố viên đợi cho đến khi các vấn đề hiến pháp được Tối cao Pháp viện giải quyết trước khi xét xử thêm các nhà lãnh đạo CPUSA. Các bị cáo cấp hai bị truy tố trong ba đợt: 1951, 1954, và 1956.

Các bị cáo cấp hai gặp khó khăn trong việc tìm luật sư đại diện. Năm luật sư bào chữa tại phiên tòa năm 1949 đã bị bỏ tù vì khinh thường tòa án, Luật sư cho các bị cáo khác thường bị các tòa án, nhóm luật sư và hội đồng cấp phép tấn công, khiến nhiều luật sư bào chữa tránh các vụ kiện theo Đạo luật Smith. Một số bị cáo buộc phải liên hệ với hơn 100 luật sư trước khi tìm được người; bị cáo Steve Nelson không thể tìm được luật sư đại diện ở Pennsylvania, vì vậy buộc phải đại diện cho chính mình. Các thẩm phán đôi khi phải chỉ định luật sư không mong muốn cho những bị cáo không tìm được luật sư. National Lawyers Guild cung cấp một số luật sư cho các bị cáo, nhưng vào năm 1953, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Herbert Brownell Jr. đe dọa liệt tổ chức này là một tổ chức lật đổ, khiến một nửa số thành viên phải rời đi.

Một số bị cáo cấp hai đã không thể đăng ký tại ngoại vì chính phủ từ chối cho phép quỹ bảo vệ pháp lý Civil Rights Congress (CRC) cung cấp kinh phí bảo lãnh tại ngoại. CRC vi phạm hệ thống tư pháp vì đã đăng ký bảo lãnh cho các bị cáo trong phiên tòa năm 1949, và bốn trong số các bị cáo đó bỏ trốn vào năm 1951.

Phán quyết California bị đảo ngược

thumb|right|alt=Một chân dung chính thức của một thẩm phán, trong chiếc áo choàng, đang ngồi.|[[Earl Warren, Chánh án khi phán quyết Yates được đưa ra năm 1957.]]

Các Tòa Phúc thẩm Liên bang giữ nguyên tất cả các bản án của các cán bộ cấp hai. Tối cao Pháp viện từ chối xét xử lại cho đến năm 1956, khi đồng ý nghe kháng cáo của các bị cáo ở California; dẫn đến phán quyết bước ngoặt Yates v. United States. 14 cán bộ CPUSA cấp hai từ California bị kết tội vi phạm Đạo luật Smith đã kháng cáo và vào 17 tháng 6 năm 1957, được gọi là "Thứ Hai Đỏ", Tối cao Pháp viện đã đảo ngược các kết án trước đó. Vào thời điểm Tòa ra phán quyết vụ Yates v. United States với số phiếu 6–1, 4 trong số các Thẩm phán Tối cao Pháp viện ủng hộ phán quyết Dennis (1951) đã bị thay thế, bao gồm cả Chánh án Vinson. Ông được thay thế bởi Chánh án Earl Warren. Viết cho đa số, Thẩm phán John Marshall Harlan đưa ra khái niệm cân bằng giữa quyền tự bảo vệ của xã hội với quyền tự do ngôn luận.

Yates không khẳng định Đạo luật Smith là vi hiến hoặc bác bỏ quyết định Dennis , nhưng Yates hạn chế việc áp dụng Đạo luật ở mức độ gần như không thể thi hành. Quyết định Yates khiến một số thành viên bảo thủ của Quốc hội phẫn nộ, đưa ra luật để hạn chế quyền xét xử của tư pháp đối với một số bản án liên quan đến tội dụ dỗ và phản quốc. Dự luật này đã không được thông qua.

Điều khoản thành viên

Bốn năm sau quyết định Yates, Tối cao Pháp viện đã đảo ngược việc kết tội một lãnh đạo CPUSA cấp hai khác, John Francis Noto ở New York, trong vụ Noto v. United States năm 1961. Noto bị kết án theo điều khoản thành viên của Đạo luật Smith, và ông đã phản đối tính hợp hiến của điều này khi kháng cáo. Thay mặt cho đa số, Thẩm phán Harlan đã viết:

Phán quyết không khẳng định điều khoản thành viên là vi hiến. Các công tố viên đã theo đuổi vụ án của Scales vì ông đặc biệt ủng hộ hành động chính trị bạo lực và có kỹ năng võ thuật. Trong kháng cáo lên Tối cao Pháp viện, Scales cho rằng Đạo luật McCarran năm 1950 khiến điều khoản thành viên Đạo luật của Smith vô hiệu, vì Đạo luật McCarran quy định rõ ràng rằng bản thân việc các thành viên của một đảng cộng sản không phải là một điều vi phạm bất kỳ điều luật hình sự. Năm 1961, Tối cao Pháp viện, trong một quyết định 5–4, giữ nguyên kết tội của Scales, nhận thấy rằng điều khoản thành viên của Đạo luật Smith không bị Đạo luật McCarran bác bỏ, bởi vì Đạo luật Smith yêu cầu các công tố viên phải chứng minh rằng có sự ủng hộ trực tiếp của bạo lực; và thứ hai, tư cách thành viên của bị đơn là đáng kể và tích cực, không chỉ thụ động hoặc về lý thuyết. Hai Thẩm phán của Tối cao Pháp viện ủng hộ quyết định Yates năm 1957, Harlan và Frankfurter, đã bỏ phiếu duy trì kết tội Scales. Scales là quyết định duy nhất của Tối cao Pháp viện duy trì kết tội chỉ dựa trên tư cách thành viên của một đảng chính trị.

Hậu quả

Các quyết định YatesNoto làm suy yếu Đạo luật Smith và đánh dấu sự khởi đầu cho việc chấm dứt điều tra thành viên CPUSA. Khi các phiên tòa kết thúc vào năm 1958, 144 người đã bị truy tố, dẫn đến 105 bản án, tích lũy tổng cộng là 418 năm tù và $435.500 ($ vào năm ) tiền phạt. Gần một nửa số người cộng sản kết án đã phải ngồi tù.

Trong hai thập kỷ sau quyết định Dennis, các vấn đề tự do ngôn luận liên quan đến chủ trương bạo lực đã được quyết định bằng cách sử dụng phép thử cân bằng, chẳng hạn như áp dụng ở Dennis. Năm 1969, tòa án đã thiết lập các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ hơn cho lời nói trong vụ án mang tính bước ngoặt Brandenburg v. Ohio, khẳng định rằng "các bảo đảm trong hiến pháp về tự do ngôn luận và tự do báo chí không cho phép một bang cấm hoặc bài trừ việc vận động sử dụng vũ lực hoặc vi phạm pháp luật trừ khi chủ trương đó nhằm mục đích xúi giục hoặc dẫn đến hành động phi pháp trước mắt". Brandenburg hiện là tiêu chuẩn được Tòa án áp dụng cho các vấn đề tự do ngôn luận liên quan đến việc ủng hộ bạo lực.

Các vụ xét xử theo Đạo luật Smith đã làm suy yếu lãnh đạo của CPUSA. Dennis đã cố gắng lãnh đạo từ bên trong nhà tù Atlanta, nhưng các quan chức nhà tù đã kiểm duyệt thư và cách ly ông thành công với thế giới bên ngoài. Năm 1956, Nikita Sergeyevich Khrushchyov tiết lộ thực tế về các cuộc thanh trừng của Stalin, khiến nhiều thành viên CPUSA còn lại bỏ cuộc trong vỡ mộng. Vào cuối những năm 1950, số thành viên của CPUSA đã giảm xuống còn 5.000 người, trong đó hơn 1.000 người có thể là người cung cấp thông tin cho FBI.

thumb|upright|right|alt=Mặt của một người đàn ông trước nền màu xanh|Bị cáo Gus Hall tranh cử tổng thống bốn lần sau khi mãn hạn tù.

Các bị cáo tại phiên tòa năm 1949 đã được ra tù vào giữa những năm 1950. Gus Hall là lãnh đạo Đảng trong 40 năm nữa; ông ủng hộ các chính sách của Liên Xô, và tranh cử tổng thống bốn lần từ năm 1972 đến năm 1984.

Henry Winston trở thành đồng chủ tịch của CPUSA (cùng với Hall) vào năm 1966 và được Liên Xô trao tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười vào năm 1976. Gil Green được thả ra khỏi nhà tù Leavenworth vào năm 1961 và tiếp tục làm việc với CPUSA để phản đối Chiến tranh Việt Nam.

John Williamson được trả tự do sớm vào năm 1955, và bị trục xuất sang Anh, mặc dù đã sống ở Hoa Kỳ từ năm 10 tuổi. Irving Potash chuyển đến Ba Lan sau khi mãn hạn tù, sau đó tái nhập cảnh Hoa Kỳ bất hợp pháp vào năm 1957, bị bắt và kết án hai năm tù vì vi phạm luật nhập cư. Ông mất năm 1965 và các quan chức Quân đội Hoa Kỳ từ chối chôn cất ông tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Vợ ông đã phản đối quyết định đó, ban đầu thua kiện tại Tòa án Quận Hoa Kỳ và sau đó thắng tại Tòa phúc thẩm. Luật sư biện hộ George W. Crockett Jr. sau đó trở thành nghị sĩ đảng Dân chủ ở Michigan.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vụ xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản theo Đạo luật Smith** ở thành phố New York từ năm 1949 đến năm 1958 là kết quả các cuộc truy tố của chính quyền liên
**Biểu tình tại Hồng Kông năm 2019–2020**, còn được gọi là **Phong trào chống sửa đổi dự luật dẫn độ** (), là một loạt các cuộc biểu tình diễn ra từ năm 2019–2020, được gây
**Hội nghị Đảng Cộng hòa Thượng viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Senate Republican Conference_) là tổ chức nhóm họp chính thức của các Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa tại Thượng viện Hoa
**Pháp Luân Công** hay **Pháp Luân Đại Pháp** là một phong trào tôn giáo mới. Pháp Luân Công được Lý Hồng Chí sáng lập ở Trung Quốc vào đầu những năm 1990. Pháp Luân Công
**Viện Công nghệ Massachusetts** ( hay MIT) là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở thành phố Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. MIT nổi tiếng nhờ hoạt động nghiên cứu và giáo dục trong
nhỏ|phải|Bản đồ Volkstaat - một lãnh địa dành riêng cho người da trắng ở Nam Phi nhỏ|phải|Lãnh thổ Tây Bắc dành cho người da trắng ở Hoa Kỳ **Lãnh thổ da trắng** (_White ethnostate_) hay
Các cuộc tấn công vào các phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ vào ngày 11/9/2012 được cho là phản ứng lại một đoạn video giới thiệu trên YouTube với nhan đề "Sự ngây thơ của
**Phiên tòa Scopes**, tên chính thức tiếng Anh: **_The State of Tennessee v. John Thomas Scopes_,** và thường được gọi là **Phiên tòa Khỉ Scopes**, là một vụ kiện pháp lý ở Hoa Kỳ, diễn
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
**Botswana**, tên chính thức **Cộng hoà Botswana** (phiên âm Tiếng Việt: **Bốt-xoa-na**; tiếng Tswana: _Lefatshe la Botswana_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Phi. Trước kia nó là quốc gia
**Benjamin Disraeli, Bá tước thứ 1 xứ Beaconsfield**, (1804 – 1881) là một chính trị gia người Anh thuộc Đảng Bảo thủ, từng hai lần giữ chức Thủ tướng Vương quốc Anh. Ông đóng vai trò
**Quản trị công ty cổ phần**, gọi tắt là **quản trị công ty**, là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty cổ
**Theodore Robert Bundy** (; 24 tháng 11 năm 1946 – 24 tháng 1 năm 1989) là một kẻ giết người hàng loạt người Mỹ đã bắt cóc, hãm hiếp và sát hại nhiều phụ nữ cũng
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Thomas Cranmer** (2 tháng 7, 1489 – 21 tháng 3, 1556) là nhà lãnh đạo cuộc Cải cách Anh, và là Tổng Giám mục Canterbury trong thời trị vì của Henry VIII, Edward VI, và
thế=|nhỏ| [[Tuyên truyền chống cộng của Hoa Kỳ những năm 1950, đặc biệt đề cập đến ngành công nghiệp giải trí ]] **Chủ nghĩa McCarthy** (tiếng Anh: **McCarthyism**) là thuật ngữ nói về việc cáo
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
**John Christopher Depp II** (sinh ngày 9 tháng 6 năm 1963) là một nam diễn viên, nhà sản xuất điện ảnh và nhạc sĩ người Mỹ. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông là người
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Thaddeus Stevens** (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen** (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm
**Atomwaffen Division** (_Sư đoàn Atomwaffen_; "Atomwaffen" trong tiếng Đức có nghĩa là "Vũ khí hạt nhân") hay còn được gọi là **National Socialist Resistance Front** ("Mặt trận Kháng chiến Quốc Xã_"_), và nó được coi
**Jeanne d'Arc** ( ; ;  – 30 tháng 5 năm 1431) là thánh quan thầy của nước Pháp, được tôn vinh vì vai trò trong cuộc vây hãm Orléans và sự kiên quyết của nàng
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**James Earl "Jimmy" Carter, Jr** (1 tháng 10 năm 1924 – 29 tháng 12 năm 2024) là một chính khách, Tổng thống thứ 39 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (1977–1981), ông được trao tặng
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**Tu chính án thứ 19** (**Tu chính án XIX**) cấm chính phủ liên bang, tiểu bang từ chối quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ theo giới tính. Tuy đề xuất lên Quốc hội
**_Hậu duệ Mặt Trời_** (; ) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2016 thuộc thể loại lãng mạn, tâm lý tình cảm và hành động, với sự tham gia của các diễn
**Umberto II của Ý** (15 tháng 9 năm 1904 – 18 tháng 3 năm 1983) là vị vua cuối cùng của Ý. Ông trị vì 34 ngày, từ ngày 09 tháng 5 tới ngày 13
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
thumb|Các nhân viên của một doanh nghiệp cho thuê tạm nghỉ công việc chính để làm tình nguyện viên xây nhà cho [[Habitat for Humanity, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên xây dựng những
thumb|_[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene_ bởi Simeon Solomon, 1864]] thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào
**Caroline của Braunschweig-Wolfenbüttel** (tiếng Đức: _Caroline Amalie Elisabeth von Braunschweig-Wolfenbüttel_; 17 tháng 5 năm 1768 - 7 tháng 8 năm 1821) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Hannover với tư cách
Hôn nhân cùng giới đã được công nhận hợp pháp tại tiểu bang Bắc Carolina của Hoa Kỳ kể từ ngày 10 tháng 10 năm 2014, khi một thẩm phán Tòa án quận Hoa Kỳ
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Michael Joseph Jackson** (29 tháng 8 năm 1958 – 25 tháng 6 năm 2009) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công, nhà sản xuất thu âm kiêm nhà hoạt động thiện nguyện người
**Angelina Jolie** (; tên khai sinh **Angelina Jolie Voight**; Jolie là em gái của diễn viên James Haven cũng như là cháu gái của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Chip Taylor và nhà địa chất
**Richard Milhous Nixon** (9 tháng 1 năm 191322 tháng 4 năm 1994) là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, từng giữ chức tổng thống Hoa Kỳ thứ 37 từ năm 1969 đến
nhỏ|[[Peterhouse , trường cao đẳng đầu tiên của Cambridge, được thành lập vào năm 1284]] **Viện Đại học Cambridge** (tiếng Anh: _University of Cambridge_), còn gọi là **Đại học Cambridge**, là một viện đại học
**_Red Dead Redemption 2_** là một trò chơi phiêu lưu hành động năm 2018 do Rockstar Games phát triển và phát hành. Trò chơi là phần thứ ba trong loạt _Red Dead _và là tiền
**_1989_** là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10
nhỏ|Một poster phản chiến nhỏ| Một [[Những biểu tượng hòa bình|biểu tượng hòa bình, ban đầu được thiết kế cho Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND) của Anh ]] **Phong trào chống
**Tokelau** (; trước đây được gọi là **Quần đảo Liên minh** (), và cho đến năm 1976 được gọi chính thức là **Quần đảo Tokelau**) là một lãnh thổ phụ thuộc của New Zealand nằm
**Henry Alfred Kissinger** (; ; tên khai sinh là **Heinz Alfred Kissinger**, 27 tháng 5 năm 192329 tháng 11 năm 2023) là một nhà chính trị gia người Mỹ. Là người tị nạn Do Thái
**Nguyễn Văn Đài** (sinh năm 1969) là một luật sư và nhân vật bất đồng chính kiến người Việt Nam. Ông từng bảo vệ nhiều vụ án nhân quyền và tôn giáo như vụ xử
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn