✨Tu chính án thứ 19 Hiến pháp Hoa Kỳ
Tu chính án thứ 19 (Tu chính án XIX) cấm chính phủ liên bang, tiểu bang từ chối quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ theo giới tính. Tuy đề xuất lên Quốc hội lần đầu tiên vào năm 1878, nỗ lực thông qua tu chính án quyền nữ tuyển thất bại nhiều lần cho đến khi Hạ viện thông qua vào ngày 21 tháng 5 năm 1919, Thượng viện vào ngày 4 tháng 6 năm 1919, sau đó tu chính án giao nộp các tiểu bang cho phê chuẩn. Tennessee là tiểu bang cuối cùng trong 36 bang cần thiết phê chuẩn, vào ngày 18 tháng 8 năm 1920. Tu chính án thứ 19 chính thức ban hành vào ngày 26 tháng 8 năm 1920, kết quả của phong trào quyền nữ tuyển ở cấp tiểu bang lẫn toàn quốc.
Trước năm 1776, phụ nữ có quyền bầu cử ở vài thuộc địa sau này lập thành Hoa Kỳ, nhưng tới năm 1807 mọi hiến pháp tiểu bang đều từ chối thậm chí quyền bầu cử hạn chế. Các tổ chức nữ quyền bắt đầu hoạt động sôi nổi hơn vào giữa thế kỷ 19, năm 1848 Hội nghị Seneca Falls công bố bản Tuyên ngôn ý kiến có tán thành bình đẳng nam nữ cùng quyết nghị kêu gọi phụ nữ đấu tranh vì lá phiếu. Các tổ chức thân nữ cử dùng nhiều biện pháp, bao gồm lý luận pháp lý dựa trên các tu chính án đang có, sau khi bị Tòa án tối cao Hoa Kỳ bác bỏ thì kêu gọi thông qua tu chính án mới bảo đảm quyền bầu cử của phụ nữ.
Đến cuối thế kỷ 19, những tiểu bang và lãnh thổ mới, đặc biệt ở miền tây, bắt đầu trao quyền bầu cử cho phụ nữ. Năm 1878, đề nghị bầu cử mà sau này sẽ trở thành Tu chính án thứ 19 đề xuất lên Quốc hội, nhưng bị phủ quyết vào năm 1887. Trong những năm 1890, các tổ chức bầu cử chuyên chú vào chính phủ liên bang trong khi vẫn hoạt động ở cấp tiểu bang, địa phương, Lucy Burns và Alice Paul trở thành các lãnh đạo quan trọng có những kế hoạch tuy khác nhau nhưng giúp thúc đẩy Tu chính án thứ 19. Nhận thức công chúng về quyền nữ tuyển thay đổi khi Hoa Kỳ gia nhập Thế chiến thứ nhất, Hiệp hội quyền nữ tuyển Hoa Kỳ toàn quốc do Carrie Chapman Catt lãnh đạo ủng hộ tham gia chiến tranh, xét rằng phụ nữ nên được thưởng bằng quyền bầu cử vì phục vụ chiến thời yêu nước. Đảng phụ nữ toàn quốc tổ chức diễu hành, biểu tình và tuyệt thực, chỉ ra tính vô lý của đấu tranh vì dân chủ ở nước ngoài trong khi hạn chế trong nước bằng cách từ chối quyền bầu cử của phụ nữ. Việc làm của hai tổ chức thay đổi dư luận, khiến Tổng thống Wilson tuyên bố ủng hộ tu chính án bầu cử vào năm 1918, thông qua vào năm 1919 và ban hành vào năm 1920, vượt được hai thử thách pháp lý, Leser v. Garnett và Fairchild v. Hughes.
Tu chính án thứ 19 cho phép 26 triệu phụ nữ Mỹ bầu cử lần đầu tiên trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1920, nhưng khối bầu cử mạnh mẽ của phụ nữ mà nhiều chính khách lo sợ không hình thành cho đến khi nhiều thập niên sau, tu chính án cũng không bảo đảm hoàn toàn quyền bầu cử của phụ nữ người Mỹ bản xứ, Tây Ban Nha, châu Á và châu Phi. Sớm sau khi tu chính án ban hành, Alice Paul cùng Đảng phụ nữ toàn quốc bắt đầu vận động cho Tu chính án bình quyền, theo họ là bước cần thiết tiếp theo để bảo đảm bình đẳng.
Văn bản
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:19th_Amendment_Pg1of1_AC.jpg|nhỏ|Tu chính án thứ 19 ở [[National Archives and Records Administration|Viện tài liệu lưu trữ quốc gia]]
Lịch sử
Phong trào quyền nữ tuyển sớm (1776—1865)
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Women's_Rights_Convention_-WomensMarch_-WomensMarch2018_-SenecaFalls_-NY_(28029155839).jpg|thế=|trái|nhỏ|Văn bản tấm quảng cáo nhỏ đã thu hút cuộc họp nam nữ rộng rãi và đa dạng ở Hội nghị ngữ quyền đầu tiên, tổ chức ở Seneca Falls, New York trong tháng 7 năm 1848 Hiến pháp Hoa Kỳ ban hành vào năm 1789 không quy định rõ quyền bầu cử. Cơ quan công cử trực tiếp duy nhất do Hiến pháp nguyên bản thành lập là Hạ nghị viện mà quyền ấn định tư cách bầu cử giao cho các tiểu bang. Tuy phụ nữ có quyền bầu cử ở vài thuộc địa tiền cách mạng sẽ lập thành Hoa Kỳ, sau năm 1776 mọi tiểu bang ban hành hiến pháp từ chối quyền bầu cử của phụ nữ, ngoại trừ New Jersey có hiến pháp bảo đảm quyền bầu cử của cư dân sở hữu đất đai, bao gồm phụ nữ độc thân và có chồng, nhưng quyền bầu cử tiểu bang bãi bỏ vào năm 1807, không khôi phục cho đến khi New Jersey phê chuẩn Tu chính án thứ 19 vào năm 1920.
Tuy các phong trào và tổ chức nữ quyền rải rác tồn tại trước đấy, Hội nghị Seneca Falls năm 1848 ở New York thường xem là khởi đầu của phong trào nữ quyền Hoa Kỳ. Có gần 300 nam lẫn nữ tham dự, hội nghị tổ chức để "bàn luận về quyền lợi xã hội, dân dụng, tôn giáo của phụ nữ" và bế mạc bằng việc ban hành bản Tuyên ngôn ý kiến. Có 68 phụ nữ cùng 32 đàn ông ký, chín trong 12 đoạn của văn bản ghi "quyết định rằng, nghĩa vụ của phụ nữ đất nước này là bảo đảm quyền lợi bầu cử thiêng liêng của họ." Hội viên Lucretia Mott và Elizabeth Cady Stanton trở thành những lãnh đạo then chốt sớm của phong trào quyền nữ tuyển Hoa Kỳ, sự ủng hộ quyền nữ tuyển của Mott bắt nguồn từ một mùa hè với Bộ lạc Seneca, một trong sáu của Liên bộ Iroquois, nơi phụ nữ có quyền lợi chính trị đáng kể, bao gồm quyền chọn, loại bỏ thủ lĩnh và phủ quyết các hành vi tham chiến.
Việc vận đồng về quyền nữ tuyển liên bang rất ít trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, khi chiến tranh kết thúc vào năm 1865 có "Đề nghị chế độ phổ tuyển" do Elizabeth Candy Stanton, Susan B. Anthony cùng những người khác ký tán thành tu chính án hiến pháp quốc gia để "cấm các tiểu bang tước đoạt quyền bầu cử của công dân theo giới tính." Phong trào là đề nghị quốc gia đầu tiên có quyền nữ tuyển là một trong các yêu cầu. Tuy các dự luật nữ tuyển đề xuất lên nhiều nghị hội tiểu bang trong thời kỳ này, thường bị bác bỏ và hiếm khi đem ra biểu quyết.
Các Tu chính án tái thiết và quyền nữ tuyển (1865—1877)
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Elizabeth Cady Stanton and Susan B Anthony.jpg|thế=|nhỏ|[[Elizabeth Cady Stanton (ngồi) cùng Susan B. Anthony (đứng)]] Phong trào quyền nữ tuyển tái vận động trong Thời kỳ tái thiết sau khi bị cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đình chỉ. Hai tổ chức nữ tuyển đối lập thành lập vào năm 1869, Hiệp hội quyền nữ tuyển toàn quốc do Elizabeth Cady Stanton cùng Susan B. Anthony lãnh đạo và Hiệp hội quyền nữ tuyển Hoa Kỳ của Lucy Stone. cũng cấm ngầm theo giới tính; bất luận các nỗ lực, những tu chính án này không cho phép phụ nữ bầu cử. Điều khoản thứ hai của Tu chính án thứ 14 phân biệt nam nữ khi chỉ phạt các tiểu bang từ chối quyền bầu cử của công dân nam trưởng thành.
Hiệp hội toàn quốc cố kiện tụng ở tòa vào giữa các năm 1870, tranh luận pháp lý rằng Tu chính án thứ 14 (quy định quốc tịch phổ thông) cùng Tu chính án thứ 15 (quy định quyền bầu cử bất luận chủng tộc) bảo đảm quyền bầu cử của phụ nữ; Tòa án tối cao Hoa Kỳ bác bỏ, trong Bradwell v. Illinois phán quyết rằng việc Tòa án tối cao Illinois từ chối cấp giấy hành nghề luật cho Myra Bradwell không vi hiến, khước từ khuếch trương quyền hành liên bang để ủng hộ quyền công dân phụ nữ, trong Minor v. Happersett thì quyết định rằng Điều khoản đặc quyền hoặc miễn trừ của Tu chính án thứ 14 không cung cấp quyền bầu cử cho công dân mà chỉ bảo đảm bảo vệ thêm cho công dân có sẵn quyền lợi. Nếu hiến pháp tiểu bang chỉ ấn định quyền bầu cử cho công dân nam của Hoa Kỳ, phụ nữ trong tiểu bang đó không có quyền bầu cử. Sau những phán quyết Tòa án tối cao giữa năm 1873 và 1875 từ chối quyền bầu cử phụ nữ bằng Tu chính án thứ 14 và 15, các nhóm nữ tuyển thay đổi kế hoạch, chủ trương tu chính án hiến pháp mới.
Tu chính án liên bang có mục đích cho phép phụ nữ bầu cử do Aaron A. Sargent đề xuất lần đầu tiên lên Thượng viện Hoa Kỳ vào năm 1878, Thượng nghị sĩ từ California chủ trương quyền nữ tuyển. Stanton và những phụ nữ khác chứng nhận ủng hộ tu chính án trước Thượng viện, dự án nằm ở một ủy ban cho đến khi Thượng viện xem xét và phủ quyết vào năm 1887 bằng cách biểu quyết 16-34. Có tu chính án đề xuất vào năm 1888 ở Hạ viện chủ trương quyền bầu cử hạn chế cho phụ nữ là bà cô hay quá phụ có đất đai.
Đến nhưng năm 1890, các lãnh đạo nữ tuyển bắt đầu công nhận nhu cầu khuếch trương cơ sở ủng hộ để đạt được thành công trong việc thông qua luật nữ tuyển ở cấp quốc gia, tiểu bang và địa phương. Tuy phụ nữ miền tây, các tổ chức nữ tuyển tiểu bang và Hiệp hội Hoa Kỳ đều chuyên chú bảo đảm quyền bầu cử phụ nữ ở các bang nhất định, nỗ lực ở cấp toàn quốc duy trì bằng khai nhận ở quốc hội, kiến nghị và vận động. Sau khi Hiệp hội Hoa Kỳ và toàn quốc hợp thành Hiệp hội quyền nữ tuyển Hoa Kỳ toàn quốc vào năm 1890, tổ chức vận động để đạt được ủng hộ nữ tuyển cấp tiểu bang. Các nhà nữ tuyển phải vận động công khai cho quyền bầu cử để thuyết phục dân nam, các nhà lập pháp tiểu bang và thành viên Quốc hội rằng phụ nữ Mỹ muốn được bầu cử và sẽ có lợi cho xã hội Hoa Kỳ. Những người ủng hộ cũng phải thuyết phục phụ nữ Mỹ có nhiều người không quan tâm vấn đề rằng họ cũng muốn quyền bầu cử. Sự thờ ơ của giới phụ nữ là vật trở ngại liên tục mà các nhà nữ tuyển phải vượt qua bằng vận động địa phương có tổ chức. Bất luận nỗ lực, không tiểu bang nào quy định quyền nữ tuyển giữa năm 1896 và 1910, Hiệp hội Hoa Kỳ toàn quốc chuyển sang vận động cho tu chính án hiến pháp quốc gia. Các nhà nữ tuyển cũng tiếp tục thúc đẩy công nhận quyền bầu cử ở các bang, lãnh thổ trong khi giữ mục tiêu công nhận cấp liên bang. thường ở thánh đường nhưng rồi bằng các tổ chức theo sự nghiệp cụ thể. Tuy phụ nữ da trắng đòi quyền bầu cử để được bình đẳng trong chính trường, phụ nữ gốc Phi thì để được nâng cao chủng tộc và có được thay đổi trong thời kỳ hậu Tái thiết. Các nhà nữ tuyển châu Phi nổi tiếng như Mary Church Terrell, Sojourner Truth, Frances Ellen Watkins Harper, Fannie Barrier Williams và Ida B. Wells-Barnett chủ trương quyền nữ tuyển cùng với dân quyền cho người Mỹ gốc Phi. Phong trào quốc gia ủng hộ quyền bầu cử cho phụ nữ gốc Phi bắt đầu khi các câu lạc bộ phụ nữ da đen nổi lên. Do Mary Church Terrell lãnh đạo, tổ chức là liên hội các câu lạc bộ phụ nữ gốc Phi lớn nhất nước, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nannie_Burroughs,_Woman's_National_Baptist_Convention.jpg|trái|nhỏ|Nannie Helen Burroughs cầm tờ biểu ngữ của Hội nghị phụ nữ rửa tội toàn quốc Khi Tu chính án thứ 15 cho phép đàn ông gốc Phi bầu cử, Elizabeth Cady Stanton cùng Susdan B. Anthony rời Hiệp hội bình quyền mà thành lập Hiệp hội nữ tuyển toàn quốc vào năm 1869, nói rằng phụ nữ da trắng không nên có quyền bầu cử sau đàn ông da đen. Tuy Hiệp hội toàn quốc và Hoa Kỳ hợp thành Hiệp hội nữ tuyển Hoa Kỳ toàn quốc vào năm 1890, nhưng sự căng thẳng giữa các nhà nữ tuyển da trắng và gốc Phi vẫn còn. Thậm chí Ủy ban Quốc hội cấp tiến hơn của tổ chức, sau này trở thành Đảng phụ nữ toàn quốc, làm thất vọng phụ nữ gốc Phi, từ chối cho phép tham gia cuộc diễu hành nữ tuyển đầu tiên của nước ở Washington, D.C. Tuy Hiệp hội Hoa Kỳ toàn quốc chỉ bảo Paul không cấm cản người tham gia gốc Phi, 72 tiếng trước cuộc diễu hành phụ nữ gốc Phi bị đẩy lùi về cuối hàng; Ida B. Wells phản kháng và tham gia nhóm Illinois, điện tín gửi đến ủng hộ. Cùng lúc, Hiệp hội hoạt động để ứng viên quốc hội ủng hộ nữ tuyển được đắc cử.
Nữ tuyển và lòng yêu nước Thế chiến thứ nhất
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Women_suffragists_picketing_in_front_of_the_White_house.jpg|thế=|trái|nhỏ|"Những lính gác thầm lặng" bắt đầu cuộc vận đội hai năm rưỡi trước Bạch Cung (1917) Khi Thế chiến thứ nhất khai mở vào năm 1914, phụ nữ ở tám bang đã giành được quyền bầu cử, nhưng sự ủng hộ tu chính án liên bang vẫn hững hờ; cuộc chiến làm cấp bách cuộc đấu tranh vì lá phiếu. Khi Hoa Kỳ tham chiến, Catt có quyết định gây tranh cãi ủng hộ tham gia, bất luận tâm ý thân hòa của nhiều đồng nghiệp và người ủng hộ. Trong khi phụ nữ tham gia làm việc để thay đàn ông ngoài chiến trường nhằm giúp đỡ chiến chính, lấy nhiều vị trí như y tá, công nhân cứu tế và tài xế cứu thương, Hiệp hội Hoa Kỳ toàn quốc xét rằng phụ nữ hy sinh thì nên được bầu cử, Đảng phụ nữ toàn quốc chỉ ra tính vô lý của đấu tranh vì dân chủ ở nước ngoài trong khi hạn chế trong nước. Đề nghị đưa ra Hạ viện vào tháng 1 năm 1918 thông qua bằng chỉ một phiếu, tiếp đến Thượng viện tổ chức biểu quyết, Wilson cầu khẩn ngay trên nghị sảnh, việc làm vô tiền lệ đương thời. Trong bài phát biểu ngắn, Tổng thống nối quyền nữ tuyển với chiến tranh, hỏi: "Liệu chúng ta sẽ chỉ cho họ chia sẻ đau khổ hy sinh mà không quyền lợi tự do?" mỗi lần rất gay go, các đảng viên Dân chủ miền nam liên tục từ chối cho phụ nữ bầu cử. ngày 4 tháng 6 thông qua ở Thượng viện 56-25, 37 Thượng nghị sĩ cộng hòa cùng với 19 Dân chủ sau khi giới đảng viên Dân chủ miền nam ngưng trở nghị.
Phê chuẩn
liênkết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:JudgeMagazine25Oct1919.jpg|trái|nhỏ|"Vấn đề trọng đại ở trạm bầu" ([[Judge (magazine)|Judge_, 25 tháng 10 năm 1919)]] liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Map_of_US_Suffrage,_1920.svg|nhỏ|Mức nữ tuyển luật cho phép cao nhất trước khi Tu chính án thứ 19 ban hành: Carrie Chapman Catt và Alice Paul lập tức động viên thành viên của Hiệp hội Hoa Kỳ toàn quốc và Đảng phụ nữ toàn quốc thúc đẩy các tiểu bang phê chuẩn tu chính án. Trong vài ngày có Illinois, Wisconsin và Michigan nghị hội đang họp, Tháng 7, Montana, Arkansas và Nebraska đã phê chuẩn. Chống đối có giới "Antis", cụ thể là Josephine Pearson, chủ tịch Liên hiệp phản đối Tu chính án Susan B. Anthony Phụ nữ miền Nam, đã làm chủ nhiệm khoa triết lý ở Christian College tại Columbia. tuy phụ nữ da trắng lẫn gốc Phi đều vận động thông qua nữ tuyển, vài nhà nữ tuyển da trắng cố làm hài lòng các bang miền nam rằng lá phiếu cho phụ nữ sẽ làm vô hiệu số phiếu da đen củng cố thượng địa da trắng.
Ngày 18 tháng 8 năm 1920, Tennessee phê chuẩn Tu chính án thứ 19, 50 trong số 99 thành viên Hạ viện bỏ phiếu tán thành. Sau khi ký chứng thư phê chuẩn, Thống đốc Tennessee gửi bằng đường thư đến Bộ trưởng ngoại giao Bainbridge Colby, văn phòng nhận được lúc 4:00 sáng ngày 26 tháng 8 năm 1920. Một khi chứng nhận đúng, Colby ký bản Tuyên ngôn Tu chính án hiến pháp nữ tuyển trước chỉ các thư ký mình, làm Tu chính án thứ 19 chính thức thành luật hôm đấy. Việc này là bước phê chuẩn cuối cùng cần thiết cho thêm tu chính án vào Hiến pháp, khiến Hoa Kỳ làm nước thứ 27 trên thế giới cho phép phụ nữ bầu cử.
Illinois (10 tháng 6 năm 1919)
Wisconsin (10 tháng 6 năm 1919)
Kansas (16 tháng 6 năm 1919)
Ohio (16 tháng 6 năm 1919)
New York (16 tháng 6 năm 1919)
Pennsylvania (24 tháng 6 năm 1919)
Massachusetts (25 tháng 6 năm 1919)
Texas (28 tháng 6 năm 1919)
Iowa (2 tháng 7 năm 1919)
Missouri (3 tháng 7 năm 1919)
Arkansas (28 tháng 7 năm 1919)
Montana (30 tháng 7 năm 1919) (2 tháng 8 năm 1919);
Nebraska (2 tháng 8 năm 1919)
Minnesota (8 tháng 9 năm 1919)
New Hampshire (10 tháng 9 năm 1919)
Utah (30 tháng 9 năm 1919)
California (ngày 1 tháng 11 năm 1919)
Maine (5 tháng 11 năm 1919)
North Dakota (1 tháng 12 năm 1919)
South Dakota (4 tháng 12 năm 1919)
Colorado (12 tháng 12 năm 1919) (15 tháng 12 năm 1919)
Kentucky (6 tháng 1 năm 1920)
Rhode Island (6 tháng 1 năm 1920)
Oregon (12 tháng 1 năm 1920)
Indiana (16 tháng 1 năm 1920)
Wyoming (26 tháng 1 năm 1920)
Nevada (7 tháng 2 năm 1920)
New Jersey (9 tháng 2 năm 1920)
Idaho (11 tháng 2 năm 1920)
Arizona (12 tháng 2 năm 1920)
New Mexico (16 tháng 2 năm 1920)
Oklahoma (23 tháng 2 năm 1920)
West Virginia (10 tháng 3 năm 1920, xác nhận 21 tháng 9 năm 1920)
Washington (22 tháng 3 năm 1920)
Tennessee (18 tháng 8 năm 1920)
Để phê chuẩn thành công cần 36 tiểu bang, Tennessee hoàn tất quá trình. Tuy không phê chuẩn, những bang sau duyệt y tu chính án sau khi ban hành. Vài tiểu bang không tiểu bang không triệu tập phiên lập pháp để tổ chức biểu quyết đến sau, vài từ chối khi giao nộp và đổi ý nhiều năm sau, việc phê chuẩn cuối cùng diễn ra vào năm 1984.
Thử thách pháp lý
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:19th_Amendment_Voting_Badge-Harding_Coolidge_Ticket_1920.png|nhỏ|"Tôi bỏ lá phiếu đầu tiên của mình" Huy hiệu nữ tuyển Tu chính án thứ 19, 2 tháng 11 năm 1920
Leser v. Garnett
Tòa án tối cao Hoa Kỳ nhất trí giữ vững tính hợp lệ của tu chính án trong Leser v. Garnett. Công dân Maryland Mary D. Randolph, "'nữ công dân da màu' ở 331 Đường West Biddle" và Cecilia Street Waters, "phụ nữ da trắng" ở 824 Đường North Eutaw, xin đăng ký và được chấp nhận làm dân bầu cử Baltimore đủ tư cách vào ngày 12 tháng 10 năm 1920. Để xóa tên khỏi danh sách dân bầu đủ tư cách, Oscar Leser và những người khác kiện hai phụ nữ dựa trên cơ sở họ là phụ nữ, cho rằng không được bầu bởi Hiến pháp Maryland chỉ cho đàn ông bầu cử và nghị hội Maryland đã từ chối phê chuẩn Tu chính án thứ 19. Hai tháng sau vào ngày 26 tháng 8 năm 1920, chính phủ liên bang tuyên bố tu chính án thành một phần hiến pháp. Leser tranh luận thêm rằng hiến pháp tiểu bang ở vài bang không cho phép nghị hội phê chuẩn, tòa đáp rằng việc phê chuẩn là quyền liên bang do Điều V Hiến pháp Hoa Kỳ giao phó và không bị hiến pháp tiểu bang giới hạn. Cuối cùng, nguyên cáo cho rằng Tu chính án thứ 19 không được thông qua do Tennessee lẫn West Virginia đều vi phạm thủ tục lập pháp. Tòa án phán rằng không quan trọng bởi Connecticut và Vermont đã phê chuẩn tu chính án, cung cấp số tiểu bang cần thiết để ban hành Tu chính án thứ 19 không cần Tennessee và West Virginia. Tòa cũng quyết định rằng chứng thư phê chuẩn của Tennessee và West Virginia ràng bộc và Bộ trưởng tiểu bang của cả hai đều đã chứng thực. Theo phán quyết tòa, Randolph và Waters được trở thành dân bầu cử đăng ký ở Baltimore. Tòa án tối cao phán quyết xem công dân ở tiểu bang có sẵn nữ tuyển có tư cách thách thức tính hợp lệ của việc phê chuẩn Tu chính án thứ 19 hay không. Ngày 7 tháng 7 năm 1920, Charles S. Fairchild kiện tính hợp lệ của quá trình phê chuẩn ở Tòa án tối cao Quận Columbia, tòa bác bỏ vụ việc vào ngày 20 tháng 7, Fairchild kháng cáo. Ngày 26 tháng 8, Hughes công nhận Tennessee phê chuẩn và Tu chính án thứ 19 thành luật. Tòa thượng thẩm tán thành phán quyết tòa dưới, vụ việc kháng cáo lên Tòa án tối cao, lý luận xem xét vào tháng 11 năm 1922. Tháng 2, Tòa án tối cao nhất trí phán quyết rằng Fairchild là công dân tư không có tư cách thách thức tính hợp lệ của việc phê chuẩn tu chính án theo những hạn chế của Đoạn Án kiện hay Tranh nghị tại Điều III.
Tác dụng
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:VOTE_poster_-_Citation_Acc_22002_-_Archives_and_Manuscripts_-_Library_of_Virginia.jpg|nhỏ|Áp phích BẦU, Liên hiệp phụ nữ bầu cử, 1920 liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Ad_targeting_female_votes_for_1920_presidential_election.jpg|nhỏ|Quảng cáo của Tạp chí Ladies Home nhắm phụ nữ bầu cử cho cuộc bầu cử tổng thống 1920
Hành vi bầu cử của phụ nữ
Tu chính án thứ 19 phê chuẩn cho phép 26 triệu phụ nữ Mỹ bỏ phiếu, kịp với cuộc bầu cử tổng thống 1920. Nhiều nhà lập pháp lo sợ rằng khối phụ nữ mạnh mẽ sẽ nổi dậy trên chính trường Mỹ, dẫn tới thông qua luật như Luật Sheppard-Towner bảo vệ thân phận người mẹ và thời thơ ấu 1921, mở rộng chăm sóc người mẹ trong thập niên 20. Phụ nữ mới được bầu và các nhóm phụ nữ ưu tiên chương trình cải cách thay vì lòng trung với đảng, mục tiểu đầu tiên là Luật Sheppard-Towner, là luật an sinh xã hội liên bang đầu tiên và tạo ra sự khác biệt lớn trước khi hết hạn vào năm 1929. Các thành công khác ở cấp liên bang về lao động phụ nữ và quyền công dân phụ nữ bao gồm thành lập Cục phụ nữ trong Bộ lao động vào năm 1920 và thông qua Luật Cable vào năm 1922. Sau cuộc bầu cử tổng thống 1923, chính khách nhận thấy khối phụ nữ họ sợ không tồn tại và họ không cần phải quan tâm đến các "vấn đề phụ nữ". Sự hình thành của khối bầu cử phụ nữ tìm ở nhiều thời điểm tùy theo nguồn, từ thập niên 50 đến 1970. Trong năm 1970, khoảng cách giới tính trong bầu cử toàn quốc nổi lên, phụ nữ thường bầu ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử tổng thống.
Theo nhà khoa học chính trị J. Kevin Corder và Christina Wolbrecht, ít phụ nữ đi bầu trong cuộc bầu cử toàn quốc đầu tiên sau khi Tu chính án thứ 19 ban hành. Năm 1920, 36% số phụ nữ đủ tư cách đi bầu (so với 68% số nam). Mức đi bầu thấp của phụ nữ một phần do các rào cản bầu cử khác như kiểm tra biết chữ, yêu cầu cư trú lâu và thuế bầu. Sự không có kinh nghiệm với bầu cử và ý tưởng dai dẳng rằng phụ nữ đi bầu là không đúng cũng có thể giữ mức bầu thấp. Khoảng cách tham gia thấp nhất giữa nam và nữ ở các tiểu bang cân ngang đương thời, ở các bang có tranh cử ngang sức hơn như Missouri, Kentucky và những nơi rào cản bầu cử ít. Đến năm 1960, phụ nữ đi bầu nhiều hơn nam và khuynh hướng phụ nữ tham gia bầu cử cao hơn tiếp tục vào năm 2018.
Hạn chế
Phụ nữ Mỹ gốc Phi
Người Mỹ gốc Phi đã giành được quyền bầu cử, nhưng với 75% thì chỉ trên danh nghĩa mà thôi bởi các khẽ hở hiến pháp ngăn họ hành sử quyền lợi. Trước khi tu chính án thông qua, giới chính khách miền nam giữ vững lòng tin không cho phép phụ nữ gốc Phi đi bầu. Họ không chỉ phải đấu tranh cho quyền bầu cử của mình mà còn cho quyền của đàn ông gốc Phi.
Ba triệu phụ nữ phía nam của Đường Mason-Dixon tiếp tục không được bầu cử sau khi tu chính án ban hành. Công chức bầu cử thường xuyên chặn không cho tiếp cận thùng bỏ phiếu. Khi phụ nữ gốc Phi cố đăng ký, công chức tăng dùng các biện pháp mà Brent Staples trong bài quan điểm cho tờ New York Times gọi là gian lận, hăm dọa, thuế bầu và bạo lực chính phủ. Năm 1926, một nhóm phụ nữ cố đăng ký ở Birmingham, Alabama bị công chức đánh đập. nhưng chính sách tiểu bang ngăn họ đi bầu. Năm 1948, cựu chiến binh Thế chiến thứ hai đi kiện, khiến người Mỹ bản xứ được bầu ở New Mexico và Arizona, nhưng vài bang tiếp tục cấm cho đến năm 1957.
Thuế bầu cử và kiểm tra biết chữ ngăn phụ nữ latino đi bầu. Ví dụ, ở Puerto Rico phụ nữ không được bầu cử cho đến năm 1929, nhưng chỉ phụ nữ biết chữ mới được cho đến năm 1935. Bên cạnh đó, việc gia hạn Luật quyền bầu cử năm 1975 bao gồm yêu cầu lá phiếu và vật liệu bầu cử song ngữ ở vài vùng, làm phụ nữ latino bầu dễ hơn.
Luật nhập cư quốc gia ngăn người châu Á có được quốc tịch cho đến năm 1952.
Di sản
Liên minh cử tri nữ
Năm 1920 khoảng sáu tháng trước khi Tu chính án thứ 19 ban hành, Emma Smith DeVoe cùng Carrie Chapman Catt đồng ý sát nhập Hiệp hội nữ tuyển Hoa Kỳ toàn quốc vào Hội đồng nữ cử tri toàn quốc để giúp phụ nữ mới có quyền bầu hành sử quyền lợi. Ban đầu, chỉ phụ nữ có thể gia nhập liên minh, nhưng vào năm 1973 hiến chương được sửa đổi cho phép đàn ông. Hiện tại, Liên minh nữ cử tri hoạt động ở cấp địa phương, tiểu bang và liên bang có hơn 1,000 hội địa phương, 50 hội tiểu bang và một hội lãnh thổ ở Quần đảo Virgin. Vài nhà phê bình và sử gia hỏi liệu thành lập tổ chức chuyên môn giáo dục chính trị thay vì hành động chính trị có hợp lý trong những năm đầu sau ban hành hay không, ám chỉ rằng Liên minh nữ cử tri chia rẽ năng lực của giới hoạt động. Thượng nghị sĩ Charles Curtis đệ lên Quốc hội năm đó, nhưng không có cuộc biểu quyết. Tu chính án đệ trình vào mỗi khóa họp quốc hội từ năm 1921 đến 1971, thường không ra khỏi được ủy ban.
Tu chính án, giới hoạt động nữ quyền không ủng hộ hoàn toàn, còn Carrie Patt và Liên minh nữ cử tri thì phản đổi. Trong khi Đảng phụ nữ toàn quốc tin vào bình đẳng hoàn toàn, ngay cả khi phải hy sinh những lợi ích cho phụ nữ của các luật bảo vệ, vài nhóm như Ủy ban quốc hội chung phụ nữ và Cục phụ nữ tin rằng mất lợi ích về quy định an toàn, điều kiện làm việc, nghỉ trưa, nghỉ thai sản và các bảo vệ lao động khác sẽ thắng lợi ích sẽ giành được. Các lãnh đạo lao động như Alice Hamilton và Mary Anderson cho rằng sẽ đẩy lui nỗ lực và hy sinh các tiến bộ đã giành được. Đáp lại, điều khoản tên là "phụ điều Hayden" thêm vào Tu chính án bình quyền để giữ lại bảo vệ lao động đặc biệt cho phụ nữ, Thượng viện thông qua vào năm 1950 và 1953 nhưng không được ở Hạ viện. Năm 1958, Tổng thống Eisenhower kêu gọi Quốc hội thông qua tu chính án, nhưng phụ điều Hayden rất gây tranh cãi, Đảng phụ nữ toàn quốc và các nhóm khác chống đối, cho rằng làm hỏng mục đích ban đầu.
Các phong trào phụ nữ đâm chồi nảy lộc của thập niên 60 và 70 khôi phục lòng ủng hộ tu chính án. Hạ nghị sĩ Martha Griffiths của Michigan tái đệ trình vào năm 1971, Hạ viện thông qua cùng năm. Sau khi Thượng viện thông qua vào ngày 22 tháng 3 năm 1972, tu chính án nộp cho nghị hội tiểu bang phê chuẩn. Quốc hội ban đầu hạn cho đến ngày 22 tháng 3 năm 1979, lúc đấy cần ít nhất 38 tiểu bang để ban hành tu chính án. Năm 1977 đạt được 35, có ủng hộ lưỡng đảng bao gồm cả hai chính đảng lớn và các Tổng thống Nixon, Ford và Carter. Tuy nhiên, khi Phyllis Schlafly động viên phụ nữ bảo thủ phản đối, bốn tiểu bang thu hồi phê chuẩn, dù có được làm hay không thì còn tranh cãi. Tu chính án không có được 38 bang khi tới hạn. Nỗ lực dỡ bỏ kỳ hạn gần đây nhất vào đầu năm 2019, là dự luật từ Jackie Speier có 188 nhà đồng tài trợ và đang chờ ở Quốc hội theo tháng 8 năm 2019.
Kỷ niệm
nhỏ|"Tượng đài chân dung" (ban đầu "Phong trào phụ nữ") của nữ nhà điêu khắc [[Adelaide Johnson ở Nhà tròn Điện Capitol Hoa Kỳ ]] Một phiến đá cẩm thạch bảy tấn rưỡi từ mỏ đả ở Carrara, Ý do nhà điêu khắc Adelaide Johnson khắc thành tượng tên là "Tượng đài chân dung" (ban đầu là "Phong trào phụ nữ") vén màng ở Nhà tròn Điện Capitol vào ngày 15 tháng 2 năm 1921, sáu tháng sau khi Tu chính án thứ 19 ban hành, trùng với lễ kỷ niệm tròn năm thứ 101 ngày sinh Susan B. Anthony và trong khi Đảng phụ nữ toàn quốc tổ chức hội nghị quốc gia sau ban hành đầu tiên ở Washington, D.C.
Ngày 26 tháng 8 năm 2016, tượng đài kỷ niệm Tennessee làm tiểu bang thứ 36 cần thiết để ban hành Tu chính án thứ 19 vén màn ở Centennial Park (Nashville) ở Nashville, Tennessee. Đài kỳ niệm, do Công ty Tennessee Suffrage Monument dựng và Alan LeQuire sáng tạo, có chân dung của các nhà nữ tuyển có chân trong việc Tennessee phê chuẩn: Carrie Chapman Catt, Anne Dallas Dudley, Abby Crawford Milton, Juno Frankie Pierce và Sue Shelton White. Tháng 6 năm 2018, thành phố Knoxville, Tennessee đưa ra tượng điêu khắc khác của LeQuire, lần này của hạ nghị sĩ 24 tuổi Harry T. Burn cùng mẹ. Hạ nghị sĩ Burn, theo ý mẹ, bỏ lá phiếu quyết định vào ngày 18 tháng 8 năm 1920, khiến Tennesse làm tiểu bang cuối cùng cần thiết để ban hành Tu chính án thứ 19.
Năm 2018, Utah khởi xướng phong trào tên là Better Days 2020 để "phổ biến hóa lịch sử phụ nữ của Utah." Một trong những việc đầu tiên là công bố biển số xe mới trên bậc thềm nhà nghị hội của Thành phố Salt Lake để công nhận nữ tuyển. Biến số xe kỷ niệm có được khi đăng ký xe mới hay đang có ở tiểu băng. Năm 2020 đánh dấu lễ kỷ niệm trăm năm thông qua Tu chính án thứ 19 và lễ kỷ niệm thứ 50 phụ nữ đi bầu đầu tiên ở Utah, là bang đầu tiên của nước mà phụ nữ bỏ phiếu.
Lễ kỷ niệm hằng năm thông qua Tu chính án thứ 19, tên là Ngày bình quyền phụ nữ, khởi xướng vào ngày 26 tháng 8 năm 1973. Thường giới truyền thông chú ý nhiều vào các lễ quan tọng như lễ thứ 75 (1995) và 100 (2020), cũng như vào năm 2016 bởi cuộc bầu cử tổng thống. Với lễ kỷ niệm trăm năm, vài tổ chức tổ chức sự kiện hay cuộc triển lãm lớn, bao gồm Trung tâm hiến pháp quốc gia và Sở quản lý tài liệu, hồ sơ lưu trữ quốc gia.
Văn hóa thịnh hành
Tu chính án thứ 19 có mặt trong nhiều bài hát, phim và chương trình truyền hình. Bài hát năm 1976 "Sufferin' Till Suffrage" của Schoolhouse Rock!, do Essra Mohawk trình diễn và Bob Dorough cùng Tom Yohe viết, có ghi trong vài phần, "Không phụ nữ nào đây được bầu, bất kể tuổi tác. Rồi Tu chính án thứ 19 phá lệ đè ép... Đúng đấy Tu chính án thứ 19 phá lệ đè ép." Năm 2018, nhiều nghệ sĩ thu âm phát hành tập nhạc tên là 27: The Most Perfect Album, có bài hát lấy ý tưởng thừ 27 tu chính án hiên sphaps; bài của Dolly Parton dựa trên Tu chính án thứ 19 tên là "A Woman's Right".
One Woman, One Vote là phim tài liệu năm 1995 của PBS do diễn viên Susan Sarandon thuật, từ Hội nghị Seneca Falls đến Tu chính án thứ 19 ban hành. Ken Burns công bó phim tài liệu khác vào năm 1999, Not For Ourselves Alone: The Story of Elizabeth Cady Stanton & Susan B. Anthony, dùng cảnh quay lưu trữ và thuyết minh của các diễn viên Ann Dowd, Julie Harris, Sally Kellerman và Amy Madigan. Năm 2013, John Green, tác giả bán chạy của The Fault in Our Stars, làm một khúc phim tên Women in the 19th Century: Crash Course US History #31, cung cấp cái nhìn tổng quát về phong trào phụ nữ dẫn đến Tu chính án thứ 19.
Vở kịch năm 2004 Iron Jawed Angels trình bày nhà nữ tuyển Alice Paul và Lucy Burn giúp bảo đảm thông qua Tu chính án thứ 19, do diễn viên Hilary Swank và Frances O'Connor đóng vai. Tháng 8 năm 2018, cựu Bộ trưởng ngoại giao Hillary Clinton cùng nhà làm phim kiêm đạo diễn đắc Giải thưởng Academy Steven Spielberg công bố kế hoạch làm phim truyền hình nhiều tập dựa trên sách bán chạy của Elaine Weiss, The Woman's Hour: The Great Fight to Win the Vote.