thumb|Lịch sử phát triển của [[Đế chế La Mã Thần thánh]]
Danh sách các nhà nước trong Đế quốc La Mã Thần thánh bao gồm bất kỳ lãnh thổ nào được cai trị bởi một cơ quan có thẩm quyền đã được trao quyền hoàng gia trực tiếp (Reichsfreiheit hay Reichsunmittelbarkeit), cũng như nhiều thực thể phong kiến khác như lãnh địa và các thái ấp.
Đế chế La Mã Thần thánh là một thực thể chính trị phức tạp tồn tại ở Trung Âu trong hầu hết thời kỳ Trung cổ và đầu thời kỳ cận đại và thường được cai trị chung bởi một Hoàng đế nói tiếng Đức được bầu lên bởi các thân vương được trao quyền tuyển đế hầu và khi đã được bầu lên thì hoàng đế sẽ giữ quyền trọn đời, một hoàng đế qua đời, các tuyển đế hầu sẽ được triệu tập để bầu ra một hoàn đế mới từ trong số các vị thân vương có chủ quyền trong đế chế. Trong suốt lịch sử của mình Nhà Habsburg là gia tộc có nhiều người được bầu làm hoàng đế nhất. Các nhà nước trong Đế chế được hưởng một hình thức thẩm quyền tự trị trong lãnh thổ của mình gọi là Landeshoheit, mang lại cho họ chủ quyền, tuy chưa bao giờ là các nhà nước có chủ quyền hoàn toàn theo nghĩa hiện đại.
Vào thế kỷ XVIII, Đế chế La Mã Thần thánh bao gồm khoảng 1.800 lãnh thổ, phần lớn là những điền trang nhỏ thuộc sở hữu của các gia đình Hiệp sĩ hoàng gia. Tuy nhiên, trong Thánh chế La Mã chỉ có những nhà nước thuộc Điền trang hoàng gia mới có vị thế chính trị của một lãnh thổ trong Đế chế La Mã Thần thánh với quyền đại diện và bỏ phiếu trong Đại hội Đế quốc (Reichstag). Các nhà cai trị lãnh thổ thế tục này có đầy đủ các quyền trên lãnh thổ của mình cai quản và người duy nhất đứng trên họ chính là Hoàng đế La Mã Thần thánh. Do đó, họ có thể cai trị các vùng lãnh thổ của mình với một mức độ tự trị đáng kể. Những lãnh địa được hưởng vị thế chính trị đó bao gồm Lãnh địa Tuyển hầu, Thân vương quốc, Công quốc, Bá quốc, Giáo phận vương quyền, Lãnh địa Đan viện, Thành bang đế quốc...
Trong quá trình Hòa giải Đức diễn ra từ năm 1802 đến 1814, hầu hết các Thân vương giáo hội, các thành bang đế chế tự do, các thân vương quốc thế tục và các thực thể tự trị nhỏ khác của Đế quốc La Mã Thần thánh đều mất tư cách độc lập và bị sáp nhập vào các nhà nước lớn hơn. Đến cuối quá trình hòa giải, số nhà nước ở Đức đã giảm từ gần 300 xuống chỉ còn 39.
Định nghĩa thuật ngữ
- Hochstift: lãnh thổ được cai trị bởi một giám mục với tư cách là một thân vương hay còn gọi phổ biến là giám mục vương quyền.
- Lãnh địa Đan viện (Reichsabtei): một tu viện hưởng quyền hoàng gia trực tiếp. Người đứng đầu nó là Reichsabt, nghĩa đen là 'Viện trưởng Hoàng gia' hoặc 'Viện trưởng Đế chế'. Một tu viện có địa vị tương tự là Reichskloster.
- Vùng đế chế (Reichskreis, số nhiều Reichskreise): một nhóm khu vực gồm các nhà nước của Đế quốc La Mã Thần thánh, chủ yếu nhằm mục đích tổ chức phòng thủ chung và thu thuế hoàng gia, nhưng cũng là một phương tiện tổ chức trong Đại hội đế chế.
- Đại hội đế chế (Reichstag): Nghị viện của Đế chế La Mã Thần thánh. Tên tương tự đã được sử dụng ở Liên bang Bắc Đức và ở Đức cho đến năm 1945.
- Điền trang hoàng gia (Reichsstand, số nhiều Reichsstände): một thực thể trong Đế quốc La Mã Thần thánh với quyền bỏ phiếu trong Nghị viện Hoàng gia. Một số nhà nước không có ghế, trong khi một số quan chức (chẳng hạn như Người thừa kế) là thành viên không có quyền bỏ phiếu; không đủ tiêu chuẩn là các Nhà nước hoàng gia.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Lịch sử phát triển của [[Đế chế La Mã Thần thánh]] **Danh sách các nhà nước trong Đế quốc La Mã Thần thánh** bao gồm bất kỳ lãnh thổ nào được cai trị bởi một
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
thumb|[[Vương miện (huy hiệu)|Heraldic crown của Thân vương trong Đế chế La Mã Thần thánh]] thumb|Áo choàng và vương miện của Thân vương trong huy hiệu hoàng gia **Thân vương của Đế chế La Mã
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Otto IV** (1175 – 19 tháng 5 năm 1218) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1209 cho đến khi ông qua đời vào năm 1218. Otto dành phần lớn thời gian đầu
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
**Leopold I** (Tiếng Đức: _Leopold Ignaz Joseph Balthasar Franz Felician_; Tiếng Hungary: _I. Lipót_; 9 tháng 6 năm 1640 - 5 tháng 5 năm 1705) là Hoàng đế La Mã Thần thánh, Vua của Hungary,
thumb|Hậu miện của [[Constance xứ Aragon.]]**Hoàng hậu của La Mã thần thánh** (tiếng Latinh: _Romanorum Imperatrix_; tiếng Đức: _Römisch-deutscher Kaiserin_ hoặc _Kaiserin des Heiligen Römischen Reiches_; tiếng Anh: _Holy Roman Empress_) là danh hiệu dành
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),
**Karl VII** (6 tháng 8 năm 1697 – 20 tháng 1 năm 1745) là Tuyển hầu tước của Bayern từ năm 1726 và là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 24 tháng 1 năm
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Tuyển hầu xứ Sachsen** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Sachsen_, cũng được gọi là _Kursachsen_) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập sau khi Hoàng đế Karl IV nâng Công
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
**Tuyển hầu xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Württemberg_) là một nhà nước tồn tại trong thời gian ngắn trong Đế chế La Mã Thần thánh ở hữu ngạn sông Rhein. Năm 1803, Đệ Nhất Tổng
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Thân vương quốc Orange** (tiếng Pháp: _la Principauté d'Orange_) là một Thân vương quốc nằm trong khối chư hầu của Thánh chế La Mã. Vị trí của nó hiện nay thuộc khu vực Provence, miền
thumb|[[Cầu Alcántara ở Tây Ban Nha, một kiệt tác xây dựng thời cổ đại.]] **Cầu La Mã** là loại cầu được xây dựng bởi người La Mã cổ đại, là những cây cầu lớn và
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Bài này viết về một nền văn minh cổ đại. Liên quan đến thành La Mã cổ đại, vui lòng xem Trung tâm lịch sử thành Roma.
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Tuyển hầu quốc Baden** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Baden_; tiếng Anh: _Electorate of Baden_) là một Nhà nước của Đế quốc La Mã Thần thánh, tồn tại từ năm 1803 đến năm 1806 với địa vị
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Tuyển hầu xứ Mainz** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Mainz_ hoặc _Kurmainz_; tiếng La Tinh: _Electoratus Moguntinus_), còn gọi là **Tuyển hầu quốc Mainz**, là một trong những vùng lãnh thổ theo truyền thống có quyền bầu
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người