✨Chinh phụ ngâm

Chinh phụ ngâm

nhỏ|Chinh phụ ngâm, bản dịch tiếng Việt bằng chữ Nôm. Chinh phụ ngâm (征婦吟 Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm.

Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, dài 476 câu thơ. Các câu thơ trong bài dài ngắn khác nhau, theo thể trường đoản cú, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ.

Tóm tắt

Chinh phụ ngâm có hình thức là một lời độc thoại nội tâm mà vai chính, cũng là vai duy nhất đứng ra độc thoại trong truyện là một người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết.

Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về một hình ảnh "lẫm liệt" của chồng phút chia ly đã dần mờ nhòe, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng.

Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng trăn trở, cô quạnh của người chinh phụ. Đó là việc chồng quá hạn không về, cũng không có tin tức gì, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Đó là tâm trạng "trăm sầu nghìn não" khi người chinh phụ quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đêm khuya vắng, đối diện với hoa, với nguyệt. Đó là tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ có đôi liền cành. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng.

Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả.

Một số câu thơ

Dưới đây là một số câu thơ mở đầu Chinh phụ ngâm được chia làm 5 cột, cột nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, cột phiên âm Hán Việt, cột diễn Nôm của Ngô Tư Thần theo hình thức trực dịch từ nguyên tác, cột dịch thơ song thất lục bát theo chữ Nôm thường được cho là của Đoàn Thị Điểm và cột dịch thơ theo chữ Quốc ngữ:

Bản dịch

Hiện nay, Chinh phụ ngâm có 7 bản dịch và phỏng dịch bằng các thể thơ lục bát (3 bản) hoặc song thất lục bát (4 bản) của các dịch giả Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn và hai tác giả khuyết danh ?.

Bản của Phan Huy Ích (có tên là Chinh phụ ngâm diễn ca tân khúc) được viết sau bản của Đoàn Thị Điểm (có tên ban đầu là Chinh phụ ngâm khúc diễn ca) chừng 70 năm. Bản Chinh phụ ngâm phổ biến hiện nay được nhiều người biết đến chính là bản "Chinh phụ ngâm khúc diễn ca" (được trích đưa vào Sách giáo khoa Văn học lớp 10) (xem cả bài tại đây ).

Chinh phụ ngâm cũng được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Bản dịch tiếng Pháp thực hiện bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, bản tiếng Nhật[http://www.viethoc.org/eholdings/CPN/CPNK-Jap_Rev-01.pdf] do Giáo sư Takeuchi Yonosuke dịch, và tiếng Hàn do Bae Yang Soo thực hiện.

Giá trị nghệ thuật

Chinh phụ ngâm ra đời trong bối cảnh phong trào nông dân khởi nghĩa chống triều đình phong kiến nửa đầu thế kỷ 18 đang dâng lên mạnh mẽ, đã trở thành tiếng nói đề cập đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê – Trịnh phát động lúc bấy giờ nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Nhà thơ đã nhìn nhận và tố cáo chiến tranh từ hai phía: từ phía người chinh phu, chiến tranh mang bộ mặt chết chóc, tàn lụi; từ phía người chinh phụ ở nhà, chiến tranh là cô đơn, sầu muộn, từ đó khẳng định sự phi nghĩa của chiến tranh đối với cuộc sống bình thường giản dị của con người. Hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc của tuổi trẻ được tác giả đề cập không chỉ trên phương diện tinh thần, mà ít nhiều mang màu sắc một sự khát khao mãnh liệt được gần gũi, được ân ái, trong sự đối lập với lý tưởng công danh của chế độ phong kiến thậm chí đối lập với cả những quan niệm thông thường về "quả phúc" của nhà Phật, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc. Tuy vậy, tính chất của chiến tranh chưa được tác giả ý thức rõ rệt, do đó, ở đoạn đầu khúc ngâm hình ảnh người chinh phu lúc ra đi còn mang tính lý tưởng hóa, và cuối khúc ngâm, còn là hình ảnh, dù chỉ là trong tưởng tượng với những sắc màu ảo tưởng, về sự tái hồi trong vinh quang của người chồng.

Về nghệ thuật, cả nguyên tác và bản dịch lưu hành phổ biến hiện nay đều có những thành tựu đặc biệt xuất sắc. Bút pháp ước lệ tượng trưng được nâng tầm khi Đặng Trần Côn đã chắt lọc từ kho tàng văn thơ chữ Hán cổ ra những câu phù hợp nhất với ý tứ của mình và dụng công sắp xếp thành kết cấu hoàn chỉnh, như một sáng tạo mới mẻ. Thể thơ trường đoản cú được Đặng Trần Côn sử dụng giàu nhạc tính, tiết tấu biến hóa sinh động tùy yêu cầu của nội dung. Bản dịch hiện hành Chinh phụ ngâm (của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích) cho thấy dịch giả biết phát huy những ưu điểm vốn có của nguyên tác, và gạn lọc cả những thành tựu của các bản dịch trước đó, sử dụng ưu thế của thể thơ song thất lục bát, đã vươn tới một sáng tạo tài tình bằng ngôn ngữ trong sáng hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, láy âm điệp chữ tinh tế, gieo vào lòng độc giả âm hưởng xao xuyến vừa quen thuộc vừa đa dạng, và hầu như lúc nào cũng gây được hiệu quả thẩm mỹ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Chinh phụ ngâm, bản dịch tiếng Việt bằng chữ Nôm. **_Chinh phụ ngâm_** (征婦吟 _Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận_), còn có tên khác là **_Chinh phụ ngâm khúc_**
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân** (Tiếng Trung Quốc: **天津市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Tiān Jīn shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán – Việt: _Thiên Tân thị Nhân dân Chính
**Chính phủ Đoàn kết dân tộc Cộng hòa Liên bang Myanmar** (; viết tắt là **CPĐKDT**) là một chính phủ lưu vong do Ủy ban đại diện Quốc hội Liên bang thành lập, một tổ
**Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu thứ hai** () hoặc **Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu mới** (), là chính quyền địa phương giả mạo do ba người nông dân tên
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thượng Hải** (Tiếng Trung Quốc: **上海市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Shàng Hǎi shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Thượng Hải thị Nhân dân Chính
**Chính phủ Flensburg** (tiếng Đức: _Flensburger Regierung_) là chính phủ cuối cùng của Đức Quốc xã do Đô đốc hải quân Đức Karl Dönitz lãnh đạo, đặt tại thành phố Flensburg. Chính phủ được thành
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hubert_Pierlot_and_Robert_Sturges.jpg|phải|nhỏ|[[:en:Hubert Pierlot|Hubert Pierlot _(bên trái)_, Thủ tướng chính phủ lưu vong, tháng 4 năm 1944.]] **Chính phủ Bỉ ở Luân Đôn** (tiếng Pháp: _Gouvernement belge à Londres_, tiếng Hà Lan: _Belgische regering in Londen_), cũng
**Ga khu phức hợp Chính phủ Gwacheon** (Tiếng Hàn: 정부과천청사역, Hanja: 政府果川廳舍驛) là ga tàu điện ngầm trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 4 nằm ở Byeolyang-dong và Jungang-dong, Gwacheon-si, Gyeonggi-do. ##
**Khu phức hợp Chính phủ Seoul** (Tiếng Hàn: 정부서울청사, Hanja: 政府서울廳舍), trước đây gọi là **Khu phức hợp Chính phủ Trung ương** (Tiếng Hàn: 정부중앙청사) là khu phức hợp tòa nhà văn phòng chính phủ
**Kinh tế ngầm** là một khu vực kinh tế nơi mà tất cả các hoạt động thương mại được tiến hành mà không có sự kiểm soát, thống kê của cơ quan nhà nước (thuế,
**Nhà nước ngầm** (tiếng Anh: _deep state_) là lý thuyết về sự tồn tại của mạng lưới quyền lực bí mật và không thông qua bầu cử, hoàn toàn không chịu sự kiểm soát của
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
"CHÁT NGAY VỚI SHOP ĐỂ ĐƯỢC ƯU ĐÃI"Hướng dẫn sử dụng Sâm Bố Chính tươi đúng cách1. Thái lát Sâm Bố Chính để hãm lấy nước uống+ Rửa sạch Sâm Bố Chính rồi thái thành
**Núa Ngam** là một xã thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Núa Ngam nằm ở phía đông huyện Điện Biên, nằm cách trung tâm huyện khoảng 25 km, có
**Lớp tàu ngầm _Gato**_ là một lớp tàu ngầm hạm đội được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ và được hạ thủy trong giai đoạn 1941–1943; chúng là lớp tàu ngầm Hoa Kỳ đầu
**_Mališan_** (số hiệu: P-901) là một tàu ngầm cỡ nhỏ lớp CB của Hải quân Cộng hòa Xã hội Ý trong Thế chiến II và của Hải quân Nam Tư () từ năm 1953 đến
**Lớp Kilo** là tên định danh của NATO chỉ một loại tàu ngầm quân sự chạy bằng diesel-điện cỡ lớn được chế tạo tại Nga. Tên gọi chính thức của Nga đặt cho lớp tàu
**Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg** (, ) là hệ thống đường sắt ngầm ở Sankt-Peterburg và tỉnh Leningrad, Nga. Nó được mở từ 15 tháng 11 năm 1955. Trước đây được gọi là Huân chương V.L
**Tàu điện ngầm Delhi** hoặc **Metro Delhi** () là một hệ thống tàu đường sắt nhẹ tốc độ nhanh phục vụ Delhi, Gurgaon, Noida, và Ghaziabad trong vùng Thủ đô Quốc gia Ấn Độ. Delhi
**Tàu điện ngầm Seoul tuyến số 9** (Tiếng Hàn: 서울 지하철 9호선 _Seoul Jihacheol Guhoseon_, Hanja: 서울 地下鐵 9號線) là tuyến tàu điện ngầm Seoul nối Ga Gaehwa ở Gangseo-gu, Seoul và Ga Bệnh viện
**Tàu ngầm Hình 091** (tiếng Trung: 091型) là loại tàu ngầm hạt nhân đầu tiên do Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc phát triển. Nó được phát triển từ những năm 1970.
**Lớp tàu ngầm _Porpoise**_ bao gồm mười tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Chúng tích hợp một số đặc tính tiên tiến vốn sẽ trở thành nền
**Phú Yên** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở trung tâm khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Tuy Hòa. Năm 2018, Phú
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục
**Tàu ngầm lớp _Tench**_ là một lớp tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là sự cải tiến dựa trên các lớp
phải|Chiếc tàu ngầm do [[Robert Fulton thiết kế năm 1806.]] **Lịch sử tàu ngầm** bao gồm các niên đại và sự thật lịch sử liên quan đến tàu ngầm, tàu thuyền có người lái tự
**Đợt sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tại Việt Nam 2019–2022** đề cập đến cuộc sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp xã và cấp huyện tại Việt Nam
**_Narval_** là một tàu ngầm lớp _Requin_ được chế tạo cho Hải quân Pháp vào giữa thập niên 1920. Tàu được đặt lườn vào tháng 3 năm 1923, hạ thủy vào tháng 5 năm 1925
**_Amazone_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Armide được chế tạo cho Hải quân Hy Lạp trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tàu _Amazone_ được đặt lườn tại xưởng
**Tàu ngầm lớp Oscar**, định danh của Liên Xô **Project 949 _Granit**_ và **Project 949A _Antey_** (tên ký hiệu của NATO **Oscar I** và **Oscar II**), là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân
**Tàu điện ngầm Đài Trung** (còn được gọi là **Đài Trung MRT**) là một hệ thống tàu điện ngầm hiện đang được xây dựng bởi chính quyền thành phố tại Đài Trung, Đài Loan. Ngoài
**_U-28_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
nhỏ|phải|Project 955 **Tàu ngầm Đề án 955 Borey** (tiếng Nga: **Проекта 955 Борей**; cũng có thể gọi là **Borei** cũng như được gọi là lớp **Dolgorukiy**) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa
**_U-573_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_U-12_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**Tàu điện ngầm Seoul tuyến số 3** (Tiếng Hàn: 서울 지하철 3호선 _Seoul Jihacheol Samhoseon_ , Hanja: 서울 地下鐵 3號線) là tuyến đường sắt đô thị ở Seoul được điều hành bởi Tổng công ty
Một trong các bí quyết sống khỏe của cha ông ta chính là ngâm chân thảo mộc. Đây cũng là bộ phận thường xuyên chịu nhiều áp lực trong tất cả các hoạt động của
**Vụ tấn công sarin tàu điện ngầm Tokyo** hay **Sự kiện sarin tàu điện ngầm** (), là một vụ khủng bố xảy ra vào ngày 20 tháng 3 năm 1995 tại Tokyo, Nhật Bản, do
**Đền Phú Xá** là một ngôi đền thờ tại làng Phú Xá (tên cũ là Phú Lương), nay là khu dân cư Phú Xá, phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố Hải Phòng
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
Myanmar (hay còn gọi là Miến Điện) hoạt động _theo luật định_ như một nước cộng hòa đơn nhất, theo hiến pháp 2008. The Economist Intelligence Unit đánh giá Myanmar là một "chế độ độc
**Metro Moskva** (tiếng Nga: Московский метрополитен, Moskovskiy metropoliten) là hệ thống metro ở Moskva, phục vụ Moskva, và các thành thị giáp Moskva trong tỉnh Moskva như Krasnogorsk, Reutov, Lyubertsy và Kotelniki. Mở vào năm
**Vụ tai nạn tàu điện ngầm Seoul năm 2014**, hay **vụ tai nạn từ phía sau ga Sangwangsimni** (Tiếng Hàn: 서울 지하철 2호선 상왕십리역 추돌 사고; Hanja: ), xảy ra vào khoảng 15 giờ 32
Tu chính án 1 (Tu chính án I) Hiến pháp Hoa Kỳ cấm việc đưa ra bất kỳ luật nào không tôn trọng việc thiết lập tôn giáo, đảm bảo rằng không có lệnh cấm
** Lớp tàu ngầm _Los Angeles_ **, đôi khi còn được gọi là ** lớp _LA**_ hoặc ** lớp 688**, là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh sử dụng năng lượng hạt nhân là
_U-171_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**Lớp tàu ngầm _Rainbow**_ (hoặc **lớp R**) là một lớp bao gồm bốn tàu ngầm được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào đầu thập niên 1930. Được cải tiến dựa trên dẫn trước,
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Tàu ngầm lớp Albacora** là loại tàu ngầm tấn công chạy bằng điện-diesel phát triển cho hải quân Bồ Đào Nha thiết kế của nó dựa vào tàu ngầm lớp Daphne của Pháp. Năm 1964