✨Porpoise (lớp tàu ngầm Hoa Kỳ)

Porpoise (lớp tàu ngầm Hoa Kỳ)

Lớp tàu ngầm _Porpoise_ bao gồm mười tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Chúng tích hợp một số đặc tính tiên tiến vốn sẽ trở thành nền tảng cho các lớp tàu ngầm , , , , và tiếp nối. Trên một số nguồn, lớp Porpoise còn được gọi là lớp "P".

Thiết kế

Lịch sử

Bốn tàu ngầm thuộc các kiểu P-1 và P-3 được chấp thuận để chế tạo trong năm tài chính 1934. Kiểu P-1 do Xưởng hải quân Portsmouth phát triển có cấu trúc vỏ kép toàn bộ, về thực chất là một phiên bản mở rộng của lớp Cachalot dẫn trước. Kiểu P-3 được phát triển bởi hãng Electric Boat có cấu trúc vỏ kép một phần với hai đầu là vỏ đơn, một phiên bản hoàn thiện hơn của kiểu lườn tàu được sử dụng cho chiếc . Khi sáu tàu ngầm thuộc kiểu P-5 được chấp thuận để chế tạo trong năm tài chính 1935, Hải quân cho rằng thiết kế của Electric Boat tốt hơn, nên cả sáu chiếc đều được đóng theo thiết kế vỏ kép một phần. Cả mười chiếc đều trang bị cùng một loại vũ khí và hệ thống động lực, và có đặc tính hoạt động tương tự, nên được xem là cùng một lớp.

Năm chiếc được các Xưởng hải quân Portsmouth và Mare Island của chính phủ chế tạo là những tàu ngầm Hoa Kỳ sau cùng còn sử dụng kết cấu bằng đinh tán, là nguyên nhân gây ra sự rò rỉ nhiên liệu khi hoạt động trong chiến tranh. Trong khi kỹ thuật hàn được dùng cho những phần không quan trọng, kết cấu ghép bằng đinh tán vẫn được sử dụng cho cả vỏ trong lẫn vỏ ngoài, hậu quả của quan niệm thiết kế bảo thủ và tiết kiệm chi phi trong giai đoạn Đại khủng hoảng. Năm chiếc do Electric Boat chế tạo là những tàu ngầm Hoa Kỳ đầu tiên được đóng áp dụng kỹ thuật hàn cho toàn bộ cấu trúc con tàu, và mọi tàu ngầm Hoa Kỳ tiếp theo đều được đóng toàn bộ bằng kỹ thuật này.

Đặc tính chung

Những chiếc trong lớp Portoise dài khoảng và trọng lượng choán nước khi lặn khoảng , với một cấu trúc thượng tầng tháp chỉ huy lớn và cồng kềnh. Chúng trang bị hai kính tiềm vọng, gồm một dành cho phòng điều khiển và một dành cho tháp chỉ huy. Chiều dài ban đầu của kính tiềm vọng rõ ràng là quá ngắn, nên sau đó được thay thế bằng kiểu dài .

Mục tiêu đạt được tốc độ trên mặt nước để có thể hoạt động cùng những thiết giáp hạm tiêu chuẩn đã không thể đạt được; tốc độ tối đa chủ yếu nhằm cải thiện độ bền động cơ khi di chuyển ở tốc độ đường trường. Một cải thiện đáng kể dành cho Mặt trận Thái Bình Dương là sử dụng các thùng dằn chính để chứa dầu FO đã giúp tăng gần gấp đôi tầm xa hoạt động từ lên ở tốc độ , cho phép thực hiện các chuyến tuần tra đến tận chính quốc Nhật Bản, và là một đặc tính tiêu chuẩn cho đến tận lớp vào năm 1944. Loại động cơ diesel Winton Kiểu 16-201A hai thì 16-xy lanh gặp phải nhiều trục trặc trong vận hành, nên sau này được thay thế bằng động cơ General Motors Kiểu 12-278A.

Vũ khí trang bị

Vũ khí trang bị chính ban đầu chỉ có sáu ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, cùng một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và hai súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Vào khoảng đầu Thế Chiến II, năm chiếc Porpoise, Pike, Tarpon, PickerelPermit được tăng cường thêm hai ống phóng ngư lôi trước mũi. Kiểu hải pháo 3 inch/50 caliber Mark 6 trang bị trên boong cũng được đổi sang Mark 21, trên danh nghĩa có khả năng phòng không do có góc nâng cao, nhưng hiếm khi sử dụng trong chiến đấu. Trong một đợt đại tu vào năm 1943, được nâng cấp lên hải pháo 4 inch/50 caliber Mark 9. Các con tàu còn được trang bị hai súng máy Browning M2 .50-caliber (12,7 mm), gồm một phía trước và một phía sau tháp chỉ huy, được tháo dỡ đưa vào tàu mỗi khi lặn xuống.

Lịch sử hoạt động

Sau khi tham gia các lượt thực hành vào năm 1937, phần lớn tàu ngầm lớp Porpoise, ngoại trừ ba chiếc, đã được bố trí sang hoạt động tại Philippines vào cuối năm 1939. Đến tháng 10, 1941, phần lớn lực lượng tàu ngầm hoạt động tiền phương, bao gồm toàn bộ 16 chiếc và đã được phái sang cùng hỗ trợ. Sự kiện Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng miền Nam Đông Dương thuộc Pháp khiến các nước Hoa Kỳ, Anh và Hà Lan trả đủa bằng cách cấm vận dầu mỏ vào tháng 8, 1941 càng khiến quan hệ quốc tế thêm căng thẳng và nhu cầu tăng cường quân sự tại Philippines càng trở nên cấp thiết. Khi chiến tranh nổ ra, Nhật Bản đã không ném bom các căn cứ hải quân tại Philippines mãi cho đến ngày 10 tháng 12, nên hầu hết tàu ngầm đã rời cảng trước khi bị tấn công.

Kinh nghiệm chiến tranh cho thấy các con tàu không được tối ưu cho tác chiến. Vũ khí cần được nâng cấp và phải áp dụng các kỹ thuật mới. Đặc biệt là tháp chỉ huy quá cồng kềnh dễ dàng bị hạm tàu nổi đối phương phát hiện. Hải quân Hoa Kỳ lập tức tiến hành một chương trình cải biến để giảm kích cỡ tháp chỉ huy còn tương đương với các tàu ngầm hạm đội khác, cắt bỏ cả phía trước và phía sau, chỗ trống có được dùng để bổ sung hỏa lực trên boong mạnh hơn, với hai pháo phòng không Oerlikon 20 mm được trang bị. Radar SD dò tìm không trung được đặt trên một cột ăn-ten kéo dài được ở phía trước tháp chỉ huy, và radar SJ dò tìm mặt biển được đặt trên cột ăn-ten ngắn ngay trên cầu tàu. Năm chiếc trong lớp được bổ sung thêm hai ống phóng ngư lôi phía mũi, và động cơ cũng được nâng cấp.

Hai chiếc trong lớp Porpoise đã bị mất tại vùng biển Đông Nam Á vào đầu năm 1942, rồi thêm hai chiếc nữa bị mất tại vùng biển Nhật Bản trong năm 1943. Đến đầu năm 1945, sáu chiếc còn sống sót đều được rút về Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut để làm nhiệm vụ huấn luyện; và sau khi chiến tranh chấm dứt, bốn chiếc được tiếp tục sử dụng như tàu huấn luyện ngoài biên chế cho Hải quân Dự bị Hoa Kỳ, cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1957.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu ngầm _Porpoise**_ bao gồm mười tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Chúng tích hợp một số đặc tính tiên tiến vốn sẽ trở thành nền
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**_Porpoise_** là tên từng được đặt cho những lớp tàu ngầm khác nhau: * Lớp _Grampus_ của Hải quân Hoàng gia Anh, đôi khi còn được gọi là lớp _Porpoise_, bao gồm sáu tàu ngầm
Tàu ngầm Type XXI là một lớp tàu ngầm diesel-điện của Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. 118 chiếc tàu ngầm loại này đã được chế tạo hoàn thiện nhưng chỉ
**Lớp tàu ngầm _Salmon**_ bao gồm sáu tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối thập niên 1930. Chúng là một bước phát triển quan trọng trong khái niệm thiết kế
**USS _Porpoise_ (SS–172)** là chiếc dẫn đầu của một lớp tàu ngầm mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của
**USS _Shark_ (SS-174)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm và là chiếc tàu ngầm thứ hai
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Porpoise**_, theo tên loài cá heo chuột: * là một tàu schooner đóng năm 1820 và bị đắm năm 1833 *
**USS _Plunger_ (SS-179)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Tarpon_ (SS-175)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Pompano_ (SS-181)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai và là chiếc tàu ngầm đầu tiên
**USS _Permit_ (SS-178)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Perch_ (SS-176)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Pickerel_ (SS-177)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Pollack_ (SS-180)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Pike_ (SS–173)** là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt
**USS _Salmon_ (SS-182)** là một tàu ngầm, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm
**USS _Sturgeon_ (SS-187)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Skipjack_ (SS-184)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Snapper_ (SS-185)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba và là tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa
**USS _Stingray_ (SS-186)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Seal_ (SS-183)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**Silent Hunter 4: Wolves of the Pacific** (tạm dịch: _Thợ săn thầm lặng: Những con sói Thái Bình Dương_) là một trò chơi điện tử mô phỏng điều khiển tàu ngầm dành cho hệ điều
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Perch**_, theo tên loài cá pecca: * là một tàu ngầm lớp _Porpoise_ nhập biên chế năm 1936 và bị mất
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Shark**_, theo tên loài cá mập: * là một tàu schooner nhập biên chế năm 1821 và bị đắm năm 1846
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt hay dự định đặt cái tên **USS _Pompano**_, theo tên chi cá pompano trong họ Cá khế: * là một tàu tiếp liệu trong
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**New Zealand** (, ) là một đảo quốc nằm tại khu vực phía tây nam của Thái Bình Dương. Trên phương diện địa lý, New Zealand bao gồm hai vùng lãnh thổ chính là đảo