✨Chiến dịch Giao Quảng

Chiến dịch Giao Quảng

Chiến dịch Giao Quảng (còn gọi theo Hán Việt là Giao Chỉ chi loạn hoặc Tấn Ngô Giao Chỉ chi chiến) là cuộc chiến thời Tam Quốc giữa hai nước Tấn và Đông Ngô trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc chiến kéo dài từ năm 268 đến năm 271 giữa các quốc gia Ngụy (sau đó là Tấn) và Ngô, diễn ra chủ yếu ở Giao Châu (gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, thuộc lãnh thổ Bắc bộ Việt Nam hiện nay) và Quảng Châu (gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô thuộc Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc hiện nay.

Hoàn cảnh

Giao châu thời Tam Quốc

Cuối thời Đông Hán, đất nước Trung Quốc phát sinh nội loạn do sự tranh giành lãnh thổ của các lãnh chúa quân phiệt, cuối cùng hình thành ba quốc gia là Tào Ngụy ở miền bắc, Thục Hán ở miền tây nam và Đông Ngô ở miền đông nam, tạo thành thế chân vạc.

Vùng đất Giao Châu (thuộc miền nam Trung Quốc và bắc Việt Nam hiện nay) nằm dưới sự quản lý của nhà Đông Ngô. Năm 226, vua Ngô Đại Đế là Tôn Quyền chia cắt Giao Châu thành hai châu nhỏ: Giao Châu ở phía nam và Quảng Châu ở phía bắc. Sau cái chết của thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp, Đông Ngô phong cho Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú quận Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lã Đại (Lữ Đại) cùng hợp binh tiến đánh và giết chết cả nhà họ Sĩ. Do họ Sĩ nhanh chóng bị dẹp, triều đình Đông Ngô quyết định sáp nhập lại Giao châu và Quảng châu thành Giao Châu gồm 7 quận như cũ, phong Lã Đại làm thứ sử.

Năm 248 ở Giao Châu nổ ra cuộc nổi dậy của bà Triệu nhưng nhanh chóng bị tướng Đông Ngô là Lục Dận dẹp tan.

Lã Hưng hàng Tấn

Sang năm 263, tình hình ở Trung Quốc có nhiều chuyển biến. Năm 263, thái thú Giao Châu là Tôn Tư (nhà Đông Ngô) bị viên quan là Lã Hưng cùng dân chúng giết chết. Lã Hưng đem toàn bộ Giao Châu dâng lên nhà Ngụy ở phía bắc dù bị ngăn cách về địa lý. Ở miền bắc Trung Quốc, quyền lực trong triều đình nhà Ngụy rơi vào tay quyền thần họ Tư Mã. Năm 263, Ngụy xuất quân tiêu diệt nước Thục Hán ở phía tây, cuối năm 263 thì nước Ngụy chiếm hết nước Thục Hán, mở rộng lãnh thổ miền tây nam và tiếp cận với các châu quận phía nam, uy hiếp đến lãnh thổ Đông Ngô. Quyền thần Tư Mã Chiêu nhân danh vua Ngụy phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, coi việc binh ở Giao Châu và cho Hoắc Dặc ở Nam Trung từ xa lĩnh chức Thứ sử Giao Châu. Như vậy, từ năm 263 đất Giao Châu từ tay Đông Ngô chuyển sang phụ thuộc vào nhà Ngụy. liên_kết=https://zh.wikipedia.org/wiki/File:%E4%B8%89%E5%9C%8B266.jpg|nhỏ|336x336px|Năm 266, [[nhà Tấn sau khi thu phục Thục Hán, chiếm giữ luôn Giao Châu trước đó thuộc Đông Ngô.]] Trước hành động của Lã Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu vội chia tách Giao châu thành hai châu Giao, Quảng một lần nữa như trước kia: cắt 3 quận đã Hán hóa là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc Giao châu hợp thành Quảng châu, đặt trị sở của Quảng châu ở Phiên Ngung (Trung Quốc), Giao châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.nhỏ|322x322px|Diễn biến chiến dịch Giao-Quảng. Mũi tên màu đỏ chỉ quân Đông Ngô, màu xanh lam chỉ quân Tấn. Năm 265, Tư Mã Viêm (con Tư Mã Chiêu) cướp ngôi nhà Ngụy, đặt quốc hiệu là Tấn. Đất Giao châu chuyển sang phụ thuộc vào nhà Tấn. Trước đó vào cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là công tào Lý Thống sát hại. Nhà Tấn bèn cử Thoán Cốc sang thay Lã Hưng làm thái thú Giao Chỉ. Sau Cốc chết, nhà Tấn cho Mã Dung lên thay, ít lâu sau thì Dung cũng chết. Tấn Vũ Đế theo sự tiến cử của Hoắc Dặc, cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, cùng với thái thú quận Cửu Chân là Đổng Nguyên, nha môn Mạnh Cán, Mạnh Thông, Lý Tùng, Vương Nghiệp, coi giữ Giao Chỉ.

Diễn biến chiến tranh

Quân Tấn thắng thế

Nghe tin đã mất Giao Châu, vua Ngô là Tôn Hạo tính chuyện đối phó. Năm 268, Tôn Hạo phong cho Lưu Tuấn làm thứ sử Giao Châu, cùng với Tu Tắc làm Đại đô đốc, cùng tướng quân Cố Dung, đem quân tiến xuống phía nam hòng lấy lại Giao châu. Quân của Tuấn đến nơi, bị quân Tấn đánh bại tới ba lần, phải rút chạy. Dương Tắc thừa thắng sai Mao Cảnh và Đổng Nguyên tiến công lên Quảng châu, lấy được quận Uất Lâm, giết chết Lưu Tuấn và Tu Tắc. Nhà Tấn sai Mao Cảnh đến làm thái thú Uất Lâm.

Tháng 10 năm 269, Tôn Hạo lại cử Ngu Dĩ làm Giám quân, Tiết Hủ làm Uy Nam tướng quân kiêm đại đô đốc, cùng với Đào Hoàng, người Đơn Dương làm Thương Ngô thái thú đưa quân trở lại Giao châu theo đường Kinh châu, lại cử Giám quân là Lý Úc, Đốc quân là Từ Tồn đi theo đường biển qua vùng Kiến An, sau đó hội Hợp Phố để đánh Dương Tắc.

Sang năm 271, quân Ngô tiến vào Giao châu, Đào Hoàng bại trận ở sông Phần phải lui về giữ Hợp Phố, hai tướng tử trận. Tiết Hủ giận lắm, trách mắng Đào Hoàng :Nhà ngươi tự dâng biểu xin đánh giặc, mà bỏ chết hai viên tướng, trách nhiệm ấy về ai ?

Hoàng trả lời: :Hạ quan không được làm theo ý mình. Các quân không thuận nhau. Chỉ vì thế nên đến nỗi thua...

Tiết Hủ chưa nguôi giận, toan rút quân về, nhưng Đào Hoàng không đồng ý, đem vài trăm quân đánh úp Đổng Nguyên, lấy được vàng bạc châu báu sai dùng thuyền chở về. Tiết Hủ thấy thế bèn xin lỗi Đào Hoàng, cho Hoàng làm Tiền bộ đô đốc, tiến đánh Giao châu lần nữa.

Đào Hoàng đánh quân mai phục

Đào Hoàng đi theo đường biển, tiến thẳng vào Giao châu, giao chiến với quân của Đổng Nguyên. Các tướng muốn ra giao chiến. Bấy giờ Đào Hoàng thấy có chiếc cầu gãy, cho rằng trong chiếc cầu đó có mai phục, bèn sắp riêng quân cầm kích dài cho ở lại phía sau để tập hậu rồi mới tiến binh. Khi ra giáp trận, Đổng Nguyên dùng kế rút lui để nhử. Đào Hoàng thúc quân đuổi theo thì quả nhiên gặp quân Tấn mai phục. Do có sự chuẩn bị trước quân của Đào Hoàng không náo núng, đội quân cầm kích dài lúc đó lại ra đón đánh, quân Ngô trong ứng ngoài hiệp, phá tan quân Tấn, giết chết Đổng Nguyên.

Đào Hoàng sai đem thuyền của báu vừa lấy của quân Tấn cùng vài nghìn tấm gấm bản thổ, đưa cho Lương Tề ở Phù Nghiễm. Tề biết chuyện bèn đem hơn vạn người giúp Đào Hoàng.

Đào Hoàng lấy lại Giao châu

Sau khi Đổng Nguyên đã chết, Dương Tắc sai Vương Tố ra thay, cùng với tướng Giải Hệ cố thủ trong thành. Đào Hoàng dùng kế sai em Giải Hệ là Tượng viết thư cho Hệ, rồi sai Tượng cưỡi xe bốn bánh đi chơi, có phường nhạc và lính hầu theo sau. Người của Vương Tố cho rằng Tượng làm thế tất Hệ có ý muốn phản Tấn, bèn giết chết Hệ.

Nghe tin Hệ bị giết, Đào Hoàng lập tức đem quân đánh vào châu thành, phá được thành và bắt Dương Tắc. Mao Cảnh mưu tính đánh úp Đào Hoàng, bị phát giác, Hoàng bèn giết chết Cảnh rồi thì cầm tù bọn Dương Tắc đưa về Ngô, giữa đường thì Tắc ốm chết, Cán trốn về Tấn, còn Lý Tùng, Xán Năng đều bị quân Ngô giết hại.

Đào Hoàng lại đem quân đánh Cửu Chân. Công Tào quận Cửu Chân là Lý Tộ giữ gìn trong quận theo về với Tấn, quân Ngô đánh nhiều ngày chưa hạ được. Đào Hoàng sai cậu Tộ là Lê Minh sang dụ Tộ ra hàng. Tộ đáp rằng :''Cậu vẫn là tướng bên Ngô, còn Tộ vẫn là tôi bên Tấn! Ta cứ trông vào sức mình mà thôi !

Rồi cố sức giữ thành. Quân Ngô đánh rất lâu, cuối cùng mới hạ được. Toàn bộ đất Giao châu trở về tay nhà Ngô. Về sau, Đào Hoàng còn được phong làm Giao châu mục, Đô đốc Giao châu chư quân sự, Tiền tướng quân.

Kết quả và ý nghĩa

Trận chiến ở Giao châu và Quảng châu là một trong những chiến thắng hiếm hoi của quân Ngô trước quân Tấn. Toàn bộ Giao châu và Quảng châu, tức Giao châu cũ, trở lại với Đông Ngô như trước thời điểm 263. Tôn Hạo tuy lấy lại 2 châu nhưng không nhập lại như trước mà vẫn duy trì sự chia tách như thời Cảnh Đế Tôn Hưu.

Chiến thắng này không thể làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai nước. Lực lượng chủ lực của Tấn ở trung nguyên không bị ảnh hưởng vì không tham gia chiến sự. Nước Ngô tiếp tục suy yếu trong khi quân Tấn vẫn hùng mạnh. Sang năm 280, Tấn diệt Ngô, thống nhất thiên hạ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Giao Quảng** (còn gọi theo Hán Việt là **Giao Chỉ chi loạn** hoặc **Tấn Ngô Giao Chỉ chi chiến**) là cuộc chiến thời Tam Quốc giữa hai nước Tấn và Đông Ngô trong
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947** là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước **Cuộc hành quân Léa** do quân đội Pháp thực
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Chiến dịch Linebacker** là chiến dịch do Hoa Kỳ thực hiện trong Chiến tranh Việt Nam nhầm giải tỏa áp lực tiến công của Quân giải phóng trong Chiến dịch hè 1972. Thực hiện bằng
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Hà Nam Ninh** (còn gọi là **chiến dịch Quang Trung**) tiến hành từ 28-5 đến ngày 20 tháng 6 năm 1951, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
**Chiến dịch Thung lũng 1862**, còn được biết đến với cái tên **Chiến dịch Thung lũng của Jackson**, là một chiến dịch nổi tiếng của thiếu tướng Liên minh miền Nam Thomas J. "Stonewall" Jackson
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch Šiauliai** hay **Chiến dịch Shyaulyay** diễn ra từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944 là một trong các hoạt động quân sự lớn của Hồng quân Liên Xô
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh** hay **Trận Đăk Tô – Tân Cảnh** năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa
**Chiến dịch Đông Bắc I** là một "chiến dịch nhỏ" trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra từ ngày 8 tháng 10 đến ngày 7 tháng 12 năm 1948. Hai bên tham
thumb|Một chiến dịch chống tham nhũng chưa từng có đã bắt đầu sau khi [[Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII kết thúc tại Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2012.]] Một
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng** là một chiến dịch tấn công của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đánh vào tuyến phòng thủ đường 4 và lực lượng chiếm đóng của
**Chiến dịch Union** là nhiệm vụ tìm và diệt tại Thung lũng Quế Sơn, Quảng Nam, Việt Nam Cộng hòa do Trung đoàn 1 Thủy quân lục chiến (TQLC) của Quân đội Mỹ thực hiện
**Chiến dịch Đông Bắc II** là một chiến dịch quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mở ra nhằm mục tiêu phân tán lực lượng của Pháp, giành lấy chiến thắng chiến lược
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch Nam Kỳ** là chiến dịch Pháp giành quyền bảo hộ toàn bộ miền Nam Kỳ, nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1858. Pháp phát động cuộc chiến tranh đầu tiên tại bán đảo
**Chiến dịch Union II** là nhiệm vụ tìm và diệt tại Thung lũng Quế Sơn, Quảng Nam, Việt Nam Cộng hòa do Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến (TQLC) thực hiện từ ngày 26
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Đường 14 – Phước Long** là trận đụng độ quân sự lớn giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa diễn ra trên địa bàn tỉnh
Một trực thăng UH-1D của Đại đội Không quân 336 (Không lực Hoa Kỳ) rải chất hóa học lên một vùng rừng rậm tại miền Nam Việt Nam **Chiến dịch Ranch Hand** là một chiến
**Chiến dịch Trần Hưng Đạo** hay **Chiến dịch Trung du** là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du Bắc Bộ của quân Liên
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Chiến dịch Starlite**, trong tiếng Việt gọi là **Cuộc hành quân Ánh sáng sao**, là một chiến dịch "tìm và diệt" của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là chiến dịch đầu
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch Ichi-Go** () là một chiến dịch quy mô lớn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản nhằm bình định tuyến đường nối từ Hoa Bắc xuống Đông Dương và tiêu diệt căn cứ
**Chiến dịch tấn công Smolensk–Roslavl** là hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô trong giai đoạn kết thúc các chiến dịch tiến công trên hướng Smolensk năm 1943. Từ ngày 15 tháng
**Chiến dịch Polotsk** (29 tháng 6 - 4 tháng 7 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào