✨Chi Ma hoàng

Chi Ma hoàng

Ma hoàng tên gọi khác Thảo ma hoàng(tên khoa học Ephedra) là một chi thực vật hạt trần chứa các loại cây bụi, và là chi duy nhất trong họ Ma hoàng (Ephedraceae) cũng như bộ Ma hoàng (Ephedrales). Các loài thực vật này sống trong các vùng có khí hậu khô trên một khu vực rộng, chủ yếu ở Bắc bán cầu, suốt từ miền nam châu Âu, miền bắc châu Phi, tây nam và miền trung châu Á, tây nam Bắc Mỹ và ở Nam bán cầu, tại Nam Mỹ kéo dài về phía nam tới Patagonia.

Mô tả cây ma hoàng

Cây thảo, mọc thẳng đứng, cao 30 – 70 cm. Thân có nhiều đốt, mỗi đốt dài 3 – 6 cm. trên có rãnh dọc. Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thoái hóa thành vẩy nhỏ, phía dưới lá màu hồng nâu, phía trên màu tro trắng, đầu lá nhọn và cứng. Hoa đực, hoa cái khác cành. Cành hoa đực nhiều hơn (4 – 5 đôi). Quả thịt màu đỏ.

Sinh thái,bộ phân dùng

Cây ưa khí hậu mát; mọc được nơi cằn cỗi. Ra hoa nhiều hàng năm, tái sinh chủ yếu từ hạt và cây chồi từ gốc.

Bộ phận dùng: toàn cây – herba ephedrae, thường gọi là Ma Hoàng.

Thành phần hóa học của cây:

thành phần chính chủ yếu là alkaloid có tên ephedrin. Tuy nhiên, tùy theo xuất xứ mà hoạt chất thay đổi

Những hoạt chất được tìm thấy từ cây ma hoàng là: ephedrin, d-pseudoephedrin, metyl ephedrin, d-N-metyl ephedrin, nor ephedrin… Trong đó, ephedrin là chất có tác dụng mạnh nhất, tỷ lệ hoạt chất này vào mùa thu thường cao hơn có thể đạt tới 1,3%, sau đó đến d-pseudo ephedrin chừng 0,2%.

Dược điển Trung Quốc có quy định vị ma hoàng dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 0,8% akaloid toàn phần, độ tro không được quá 9%.

Tính vị, tác dụng cây ma hoàng

vị the, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, hạ đờm, suyễn, lợi tiểu, tiêu phù.

Công dụng cây thuốc ma hoàng

Cây ma hoàng có tác dụng chữa cảm mạo, ho, viêm phế quản, hen suyễn.

Liều dùng 5 – 10g, dạng thuốc sắc.

Nhưng cần lưu ý tác dụng của rễ ma hoàng lại hoàn toàn ngược lại với cành và thân ma hoàng. Nếu dùng cao lỏng rễ ma hoàng tiêm vào động vật thì thấy huyết áp giảm xuống, mạch máu ngoại vi giãn ra, hô hấp tăng nhanh.

ngày nay được dùng làm thuốc cho cả đông và tây y.

Sử dụng và các e ngại về sức khỏe

nhỏ|Ephedra distachya Các loài thực vật này trong lịch sử đã được người dân bản địa sử dụng cho nhiều mục đích y học khác nhau, và có lẽ nó là một ứng cử viên cho loại cây soma trong các tôn giáo của người Ấn Độ, Iran. Các ancaloit như ephedrine và pseudoephedrine là thành phần hoạt hóa chính của chúng. Một số loài trong chi Ephedra không chứa ancaloit và vì thế về thực chất chúng là trơ về mặt hóa học, tuy nhiên, ở phần lớn các loài được sử dụng, chẳng hạn như ở E. sinica, có hàm lượng ancaloit toàn phần tới 1-3% theo trọng lượng khô. Ephedrine chiếm khoảng 40-90% hàm lượng ancaloit, với phần còn lại chứa pseudoephedrine và các dạng khử mêtyl của chúng. Ephedrine bị coi là chất kích thích (doping) và nó bị cấm sử dụng trong phần lớn các cuộc thi đấu thể thao.

Vào đầu những năm thập niên 1990, các e ngại về độ an toàn của ma hoàng và các sản phẩm có nguồn gốc ma hoàng bắt đầu tăng lên trong công chúng. Do ma hoàng là một loại dược thảo, các sản phẩm chứa nó đã được tiếp thị như là thuốc-thực phẩm và vì thế đã được loại ra khỏi các quy định của FDA tại Hoa Kỳ. Ma hoàng cũng đã được tìm thấy trong nhiều sản phẩm ăn kiêng thông dụng, một số trong chúng bị FDA coi là có thể nguy hiểm. Các amin kích thích thần kinh giao cảm như ephedrine làm tăng nhịp tim và huyết áp, vì thế nó có thể là nguy hiểm đối với những người có tiền sử liên quan đến các bệnh tim mạch.

Theo FDA, 155 ca tử vong có thể coi là do ma hoàng, phần lớn trong số đó liên quan đến các vấn đề và đột quỵ tim mạch. Tuy nhiên, nhiều người ủng hộ việc sử dụng ma hoàng vẫn cho rằng nó là an toàn nếu sử dụng theo đúng chỉ định và vẫn tiếp tục coi nó như là thuốc-thực phẩm chứ không phải là một loại thuốc. Các cửa hàng bán thuốc-thực phẩm của GNC đã dừng việc buôn bán các sản phẩm chứa ma hoàng vào tháng 6 năm 2003, và NFL đã cấm các cầu thủ sử dụng nó như là thuốc-thực phẩm vào năm 2001.

Vào ngày 30 tháng 12 năm 2003, FDA thông báo cấm (có hiệu lực từ ngày 12 tháng 4 năm 2004) việc bán không có kiểm soát các sản phẩm bổ trợ có chứa ma hoàng, viện dẫn rằng "rủi ro quá cao của bệnh tật hay thương tổn" từ việc sử dụng thuốc. Ephedrine tổng hợp vẫn có sẵn như là một thành phần trong một số thuốc không cần có đơn của bác sĩ được dán nhãn rõ ràng, phù hợp với các quy định của FDA. Các loại ma hoàng dạng cây (chẳng hạn các loại sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc) và không có tiếp thị đặc biệt cho tiêu dùng ở người thì vẫn không chịu chế tài của FDA, vì thế không bị ảnh hưởng. Một vài bang đã ban hành các sắc luật của mình liên quan đến việc mua bán ma hoàng và các sản phẩm chứa nó, một số sắc luật còn chặt chẽ hơn cả các quy định của FDA.

Vào ngày 14 tháng 4 năm 2005, điều cấm này đã bị bãi bỏ theo phán quyết của thẩm phán Tena Campbell [http://www.cnn.com/2005/LAW/04/14/ephedra.suit.ap/index.html]. Tuy nhiên, vào thời điểm tháng 7 năm 2005, các nhà sản xuất thuốc-thực phẩm, bao gồm cả các công ty đã phản đối việc cấm sử dụng ma hoàng tại tòa, vẫn miễn cưỡng không muốn đưa ma hoàng trở lại trong dây chuyền sản xuất của họ.

Tại Giải vô địch bóng đá thế giới của FIFA năm 1994 tại Hoa Kỳ thì cầu thủ Diego Armando Maradona người Argentina đã có kết quả dương tính đối với ephedrin khi sử dụng một loại thuốc-thực phẩm có chứa chất này. Vận động viên đua mô tô người Nhật Bản là Noriyuki Haga cũng có kết quả dương tính vào năm 2000 và bị truất quyền thi đấu ở cuộc đua kế tiếp cũng như không được tính điểm ở cuộc đua đó.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ma hoàng** tên gọi khác **Thảo ma hoàng**(tên khoa học **_Ephedra_**) là một chi thực vật hạt trần chứa các loại cây bụi, và là chi duy nhất trong **họ Ma hoàng** (_Ephedraceae_) cũng như
**Chi Địa hoàng** (danh pháp khoa học: **_Rehmannia_**) là một chi của 7-8 loài thực vật có hoa trong bộ Hoa môi (Lamiales), bản địa Trung Quốc và Nhật Bản. Đôi khi người ta còn
**Chi Mã rạng** hay **chi Ba soi** (danh pháp khoa học: **_Macaranga_**) là một chi lớn, bao gồm các loại cây thân gỗ của khu vực nhiệt đới Cựu thế giới, thuộc họ Đại kích
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**_Ephedra intermedia_** là một loài thực vật hạt trần trong họ Ephedraceae. Loài này được Schrenk & C.A.Mey. mô tả khoa học đầu tiên năm 1846.
**_Ephedra sinica_** là một loài thực vật hạt trần trong họ Ephedraceae. Loài này được Stapf mô tả khoa học đầu tiên năm 1927.
**_Ephedra equisetina_** là một loài thực vật hạt trần trong họ Ephedraceae. Loài này được Bunge mô tả khoa học đầu tiên năm 1852.
Nấm linh chi phượng hoàng được coi là dược thảo siêu hạng bởi vì con người có thể dùng nó lâu dài với số lượng lớn mà vô hại. Trong khoảng 2.000 năm qua con
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà