✨Biển Aral

Biển Aral

thumb|Biển Aral năm 1989 (trái) và 2014 (phải) thumb|Quá trình thu hẹp của biển Aral từ năm 1960 Biển Aral (tiếng Kazakh: Арал Теңізі (Aral Tengizi), tiếng Uzbek: Orol dengizi, tiếng Nga: Аральскοе мοре (Aral'skoye more), Bakhri Aral; Daryâ-ye Khârazm) là một hồ nước mặn nằm ở biên giới giữa Uzbekistan và Kazakhstan. Vào trước những năm 1960, biển này có diện tích 68.000 km2, là thủy vực nội địa lớn thứ tư trên thế giới. Tên gọi Aral trong tiếng Kazakh có nghĩa là "đảo". Mặc dù gọi là biển nhưng đây thực chất là hồ tận cùng được cấp nước bởi hai con sông Syr Darya ở phía bắc và Amu Darya ở phía nam.

Biển Aral hình thành muộn nhất vào khoảng 17.600 năm trước trong Pleistocen Muộn. Thời điểm 11.700 năm trước đã diễn ra sự trình đổi dòng của sông Amu Darya từ biển Caspi sang biển Aral. Từ đó, hai dòng sông này đã duy trì mực nước ổn định cho biển Aral đến những năm 1960. Biển Aral có khí hậu lục địa sa mạc, với biên độ nhiệt ban ngày lớn, mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 100 mm, xảy ra chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu. Gió tây bắc chiếm ưu thế vào mùa thu và mùa đông. Gió tây và tây nam thống trị trong mùa xuân và mùa hè.

Năm 1960, bề mặt biển Aral nằm ở độ cao 53 m so với mực nước biển, biển bao phủ một diện tích 68.000 km2, chiều dài bắc–nam khoảng 435 km, chiều rộng đông–tây khoảng 290 km. Độ sâu trung bình khoảng 16 m, nhưng tăng dần về phía tây với độ sâu tối đa khoảng 69 m. Từ đầu thập niên 1960, Liên Xô đã sử dụng phần lớn lượng nước của sông Syr Darya và Amu Darya để tưới tiêu cho các vùng đất ở Uzbekistan, Kazakhstan, Turkmenistan và một số nơi khác ở Trung Á. Kể từ đó, mực nước và diện tích mặt biển Aral bị suy giảm mạnh. Trong thập kỷ 1980, vào những tháng mùa hè, hai con sông lớn hầu như khô cạn trước khi chảy đến hồ. Biển Aral bắt đầu co lại vì không còn được cấp đủ nước để cân bằng với lượng nước bị bốc hơi. Vào năm 1989, biển Aral đã rút xuống và hình thành hai phần riêng biệt, "biển Aral Lớn" ở phía nam và "biển Aral Nhỏ" ở phía bắc.

Đến năm 1987, mực nước biển Aral đã giảm gần 13 mét còn diện tích thì giảm 40%. Để ổn định mực nước của biển, chính phủ các quốc gia Trung Á đã đưa ra một số chính sách khuyến khích các hoạt động nông nghiệp sử dụng tiết kiệm nước từ sông Syr Darya và sông Amu Darya. Những chính sách đó đã phần nào giảm được lượng nước sử dụng nhưng nhìn chung không có tác động đáng kể đến lượng nước đổ vào biển Aral như trước đây. Năm 1994, các nước Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan và Tajikistan đã thành lập một ủy ban liên quốc gia nhằm phối hợp các nỗ lực để cứu biển Aral. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã gặp nhiều trở ngại về cả chủ quan và khách quan.

Vào cuối thế kỷ 20, biển Aral đã rút xuống và hình thành ba hồ riêng biệt, biển Aral Lớn chia thành một hồ dài và hẹp ở phía tây cùng một hồ rộng hơn ở phía đông; và phần còn lại của biển Aral Nhỏ ở phía bắc. Mực nước đã giảm xuống còn 36 m so với mực nước biển. Lượng nước biển đã giảm đi 3/4 so với mức năm 1960. Biển Aral hầu như không nhận được lượng nước nào từ sông Amu Darya và sông Syr Darya. Vào đầu thế kỷ 21, phần phía đông của biển Aral đã bị suy giảm nghiêm trọng và rất nhanh chóng. Phần biển này đã bị giảm đi 4/5 diện tích chỉ trong vòng 3 năm (2006–2009). Trước tình hình đó, Ngân hàng Thế giới đã tài trợ cho việc xây dựng đập Kok-Aral (hoàn thành vào năm 2005) và các dự án trên sông Syr Darya để bảo tồn phần phía bắc của biển. Tuy nhiên, phần phía nam của cả khu vực phía đông và phía tây, đặc biệt là khu vực phía đông vẫn tiếp tục co lại, mặc dù được cấp một lượng nước từ phía bắc. Cuối cùng, khu vực phía đông của biển Aral đã bị khô hạn hoàn toàn sau năm 2010.

Sự thu hẹp nhanh chóng của biển Aral dẫn đến những hậu quả nghiệm trọng về môi trường sinh thái. Hàm lượng muối và khoáng chất tăng mạnh đến mức có thể giết chết nguồn lợi thủy sản và không còn thích hợp cho sinh hoạt. Một diện tích đáng kể của vùng đáy biển đã biến thành đầm lầy rồi sau thành sa mạc. Nghề cá ở biển Aral gần như đã bị phá sản. Các cảng ở phía đông bắc và phía nam ngày càng lùi xa vùng bờ. Khí hậu địa phương trở nên khắc nghiệt hơn. Chi phí y tế của người dân sống trong khu vực tăng mạnh, nhất là đối với cư dân ở phần phía nam. Những cơn gió thổi qua đáy biển lộ ra đã khiến cho khu vực này bị bụi độc hại, nhiễm muối, phân bón và thuốc trừ sâu. Hậu quả là dân cư tại khu vực này bị mắc bệnh ung thư vòm họng, bệnh thiếu máu và bệnh thận với tỷ lệ cao bất thường.

Tình cảnh của biển Aral có lẽ là thảm họa môi trường tiêu biểu nhất có nguyên nhân từ phát triển không bền vững. Cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon từng phát biểu rằng "đây rõ ràng là một trong những thảm họa môi trường tồi tệ nhất trên hành tinh".

Tiếng Việt còn gọi biển Aral là Hàm Hải

Lịch sử

Từ năm 1918, chính quyền Liên Xô đã quyết định sẽ lấy nước từ hai con sông Amu Darya ở phía nam và Syr Darya ở phía đông bắc phục vụ tưới tiêu sa mạc trong vùng, biến vùng đất khô cằn quanh biển Aral thành những đồng lúa, dưa, ngũ cốc, và bông. Ngày nay Uzbekistan là một trong các quốc gia xuất khẩu bông hàng đầu thế giới.

Công việc đào kênh bắt đầu ở quy mô lớn những năm 1930. Nhiều kênh được đào đắp với chất lượng kém, gây thất thoát và bốc hơi nước; ước tính, có từ 30% dến 70% nước lãng phí từ kênh Qaraqum, kênh lớn nhất vùng Trung Á. Ngày nay, mới có 12% chiều dài kênh tưới tiêu ở Uzbekistan có khả năng ngăn nước thất thoát.

Vào những năm 1960 Liên Xô dưới thời Khruschev đã quyết định thay đổi hướng chảy của hai con sông chủ yếu cấu thành nên hồ Aral đó là Syr Darya và Amu Darya và xây nhiều đập tới tiêu để trồng bông cung cấp áo quần cho quân đội (vì bông vào những năm 60 của thế kỉ trước vô cùng đắt đỏ và nhu cầu từ nó rất lớn, nó còn được mệnh danh là "vàng trắng" trong thời kì đó) nên Liên Xô đã quyết định "tự cung tự cấp" dẫn đến quyết định thay đổi hiện trạng của hai con sông lớn nhằm cung cấp nước để cho người dân trong liên bang có thể trồng trọt được trên sa mạc, vì lẽ đó từ năm bắt đầu đến nay biển Aral liên tục bốc hơi mà không có nước bổ sung là biển hồ này ngày càng sa mạc hóa và chỉ còn 1 phần nhỏ so với trước đây.

Cho đến năm 1960, một lượng nước từ 20 đến 50 tỷ mét khối nước hàng năm được dẫn đến các cánh đồng thay vì chảy vào biển Aral. Mất một lượng nước bổ sung lớn, biển Aral bắt đầu co rút từ thập niên 1960. Từ 1961 đến 1970, mực nước biến Aral hạ thấp trung bình 20 cm mỗi năm. Đến những năm 1970, tốc độ tụt là 50–60 cm hàng năm, những năm 1980 là 80–90 cm. Việc sử dụng nước cho sản xuất, dù vậy, vẫn được ưu tiên, từ 1960 đến 1980, sản lượng bông tăng gần gấp đôi nhờ lượng nước đưa vào đồng tăng hai lần.

Từ thập niên 1960, biển Aral bắt đầu thu hẹp bởi các sông tiếp nước cho nó là Amu Darya và Syr Darya bị chuyển hướng cho mục đích tưới tiêu. Ngày nay, Aral bị ô nhiễm nặng nề, chủ yếu là hậu quả các vụ thử vũ khí, các dự án công nghiệp và phân bón hóa học dư thừa từ trước và sau khi Liên Xô sụp đổ.

Vấn đề sinh thái chủ yếu của biển Aral là nguồn nước tiếp cho nó bị sử dụng vào mục đích tưới tiêu. Từ 40 năm nay, biển Aral không ngừng co hẹp, từ một biển kín lớn thứ 4 thế giới, nó sẽ bốc hơi hoàn toàn trong vòng 10 năm. Điều này gây ra thảm họa sinh thái và kinh tế cho khu vực và chính môi trường biển.

Nhà nước Xô viết đã nhận biết thực tế trên từ rất sớm, ít ra là trước năm 1968 và chấp nhận việc biến mất của biển Aral như là một việc không tránh khỏi để đánh đổi lấy thành công trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.

Hiện tại

Biển Aral hiện này đã mất 60% diện tích mặt nước và 80% lượng nước. Năm 1960, nó là hồ lớn thứ tư thế giới với khoảng 68 nghìn km² và 1.100 tỷ mét khối nước (1.100 km^3 khối). Đến năm 1998, hồ chỉ còn đứng thứ 8 với diện tích 28.687 km². Trong cùng khoảng thời gian trên, nồng độ muối của hồ tăng từ 10g/lít lên 45g/lít. Năm 2004, diện tích hồ còn 17.160 km vuông, tương đương 25% diện tích ban đầu và vẫn thu hẹp.

Việc phát hiện nguồn nước ngầm đổ vào hồ gần đây cũng không bù đắp nổi lượng nước cần thiết để ngăn chặn sự mất nước. Nguồn bổ sung 4 tỷ m³ hàng năm này lớn hơn ước đoán trước đây. Đó là dòng nước từ các dãy núi Pamir và Thiên Sơn đổ vào qua các lớp địa tầng có cấu trúc đứt gãy ở đáy hồ.

Năm 1987, biển Aral bị phân cách thành hai bởi mực nước tụt xuống. Một kênh đào được hình thành để nối hai phần hồ nhưng đến năm 1999, kênh này đã không còn tác dụng khi nước tiếp tục hạ thấp. Năm 2003, phần hồ phía nam (Aral Nam) tiếp tục bị phân chia thành phần phía đông và phía tây. Cũng từ năm này, lượng nước mất mát khỏi phần hồ phía bắc (Aral Bắc) đã phần nào bị hạn chế. nhỏ|Hình ảnh vệ tinh cho thấy mực nước thay đổi ở Biển Aral từ năm 2000 đến năm 2018 Công việc khôi phục biển được thực hiện ở phần Aral Bắc. Các công trình tưới tiêu trên sông Syr Darya đã được cải thiện nhằm tăng lượng nước đổ vào biển. Tháng 10 năm 2003, chính phủ Kazakhstan thông báo kế hoạch xây con đập bê tông (đập Kokaral) ngăn cách hai nửa biển Aral (Bắc và Nam). Kể từ khi con đập hoàn thành tháng 8 năm 2005, mực nước ở Aral Bắc đã dâng lên, nồng độ muối giảm xuống. Tới năm 2006, mực nước biển Aral tăng lên đáng kể, sớm hơn cả dự kiến. Như trong một báo cáo, "chiếc đập đã nhanh chóng nâng mực nước ở biển Aral nhỏ (Aral Bắc) lên 125 foot từ mức 98 foot và có khả năng lên 138 foot". Nguồn cá đã trở lại, nhiều nhà quan sát, từng cho rằng Aral Bắc là một thảm họa môi trường, đã thật ngạc nhiên bởi những báo cáo năm 2006 về công nghiệp đánh bắt đã phục hồi nhờ đủ nước và những mẻ cá được xuất tới tận Ukraina. Sự khôi phục mang lại những đám mây tạo mưa vốn từ lâu vắng bóng cùng những thay đổi khí hậu nhỏ, dấy lên hi vọng cho khu vực nông nghiệp vốn bị cát lấn và hi vọng mở rộng trở lại của biển. Biển Aral trước đây cách thành phố từng là cảng Aralsk chừng 100 km về phía nam, giờ chỉ còn cách 25 km.

Phần biển Nam Aral - phần lớn nằm ở Uzbekistan vốn nghèo hơn, bị bỏ mặc cho số phận, song dự án ở phần Aral Bắc đã mang lại đôi chút hi vọng. Với việc có con đập ở Aral Bắc, nước tháo từ đây định kỳ bổ sung cho phần phía nam. Các cuộc thảo luận đang diễn ra về khả năng nối lại con kênh giữa phần bắc và nam. Aral Nam vẫn đang co ngót, để lại những vùng đất nhiễm muối, gây ra các trận bão cát, mùa đông trở nên lạnh hơn và mùa hè nóng hơn. Những nỗ lực hạn chế ảnh hưởng này là phủ xanh những vùng biển vừa rút. Cho đến mùa hè 2003, phần biển Aral Nam mất đi nhanh hơn dự đoán. Ở những vùng nước sâu nhất của biển này, lớp nước dưới đáy mặn hơn lớp nước mặt và không hòa tan với nhau nữa. Vì thế chỉ phần nước mặt bị đốt nóng dưới ánh mặt trời và nó bay hơi nhanh hơn tính toán. Theo những số liệu gần đây, phần phía tây của biển Aral Nam sẽ biến mất trong vòng 15 năm, phần phía đông sẽ tiếp tục tồn tại nhưng cũng không chắc về số phận của nó nữa.

Hệ sinh thái của biển Aral và những châu thổ sông đổ nước vào nó gần như bị hủy diệt, không chỉ bởi nồng độ muối rất cao. Biển rút đi để lại những vùng đất mênh mông bị phủ bởi muối và hóa chất độc, những thứ này rồi bị gió đưa đi quanh vùng dưới dạng bụi. Đất đai quanh biển Aral đã bị ô nhiễm nặng nề và người dân sống trong vùng thiếu nước sạch, gánh chịu các vấn đề sức khỏe như một số dạng ung thư và các bệnh phổi. Mùa màng bị tàn phá bởi muối xâm nhập vào đất. Thị trấn Moynaq ở Uzbekistan đã từng có cầu cảng và công nghiệp đánh bắt cá tấp nập sử dụng 60.000 lao động, nay nằm cách biển nhiều dặm đường. Các thuyền đánh bắt cá nằm rải rác trên bờ, có nhiều cái đã ở đây 20 năm. Chỉ còn một công ty đánh bắt sống sót nhờ nguồn cá từ biển Baltic cách đó hàng ngàn km.

Thảm họa của biển Aral đã được đưa lên phim ảnh.

Những giải pháp khả dĩ

Nhiều giải pháp khác nhau đối phó với các vấn đề khác nhau của biển Aral được đề xuất trong các năm qua:

  • cải thiện chất lượng các kênh tưới tiêu
  • xây dựng các nhà máy khử muối
  • thu phí nông dân sử dụng nước lấy từ sông
  • thay thế các giống bông cần ít nước hơn.
  • làm chảy băng tuyết trên dãy núi Pamir và đưa nước về biển Aral – giải pháp ngắn hạn với cái giá của hậu quả dài hạn
  • hạn chế sử dụng hóa chất trong nghề trồng bông
  • xây dựng các đập nước để đưa nước về biển Aral
  • dẫn nước từ sông Volga, Ob, Irtysh về. Giải pháp này khôi phục biển Aral chỉ trong 20-30 năm với chi phí 30-50 tỷ đô la Mỹ.
  • Bơm và khử mặn nước biển từ biển Caspi vào biển Aral thông qua hệ thống đường ống

tháng 1 năm 1994, các nước Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan, Tajikistan và Kyrgyzstan đã ký một hiệp ước cam kết dành 1% ngân sách để khôi phục biển Aral. Đến 2006, các dự án khôi phục của Ngân hàng Thế giới dành cho Aral Bắc đã mang lại mực nước dâng hơn dự kiến, mang lại cả niềm tin mong manh mà trước đó chỉ là bức tranh tuyệt vọng.

Cơ sở sản xuất, thử nghiệm vũ khí sinh học trên đảo giữa biển Aral

Năm 1948, phòng thí nghiệm vũ khí sinh học tối mật của Liên Xô đã được xây dựng trên hòn đảo giữa biển Aral (ngày nay là vùng tranh chấp giữa Kazakhstan và Uzbekistan). Nguồn gốc, chức năng, và tình trạng của phòng thí nghiệm này vẫn chưa được tiết lộ. Cơ sở này bị bỏ năm 1992 sau sự chia cắt quân đội Liên Xô. Các nhà khảo sát (bao gồm cả người Mỹ) đã chứng minh rằng đây là cơ sở sản xuất, thử nghiệm và chôn vùi vũ khí sinh học. Năm 2002, qua một dự án tổ chức bởi Hoa Kỳ có sự hỗ trợ của Uzbekistan, 10 điểm chôn hóa chất bệnh than đã được khử độc. Theo nguồn của Trung tâm khoa học Kazakhstan về kiểm dịch và lây nhiễm động vật, toàn bộ các điểm chôn vi khuẩn bệnh than đã được khử độc.

Hình ảnh

Hình:Aral map.png|Bản đồ biển Aral khoảng 1960, màu vàng là những quốc gia nhận nước lấy từ các sông đổ về Aral Hình:Aral Sea.gif|Quá trình thu hẹp của biển Aral Hình:Aral sea 1985 from STS.jpg|Biển Aral năm 1985 Hình:AralSea ComparisonApr2005-06.jpg|Biển Aral được cải thiện nhờ đập Kokaral, ảnh trên chụp tháng 4/2006, ảnh dưới chụp 04/2005 Tập tin:Aralship2.jpg|Tàu thuyền mắc cạn trên biển Aral Tập tin:AralShip.jpg|Tàu thuyền mắc cạn trên biển Aral
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Biển Aral năm 1989 (trái) và 2014 (phải) thumb|Quá trình thu hẹp của biển Aral từ năm 1960 **Biển Aral** (tiếng Kazakh: Арал Теңізі (_Aral Tengizi_), tiếng Uzbek: Orol dengizi, tiếng Nga: Аральскοе мοре (_Aral'skoye
nhỏ|Bờ biển miền trung Chile thumb|upright=1.35|Một con sóng đánh vào bờ biển tại [[Vịnh Santa Catalina]] **Biển** nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hoặc là các
Bản đồ biển Caspi, khu màu vàng chỉ vùng trũng Caspi. **Biển Caspi** là hồ nước lớn nhất trên thế giới tính về cả diện tích và thể tích. Diện tích mặt nước là 371.000
thumb|Biển cận biên theo định nghĩa của [[Tổ chức Hàng hải Quốc tế]] Bài này chứa **danh sách biển** – các bộ phận lớn của đại dương thế giới, bao gồm các khu vực nước,
**Aral** hay **Aralsk** hoặc **Aral'sk**, (tiếng Kazakh: **Арал**, tiếng Nga: **Аральск**) là một thành phố nhỏ ở tây nam Kazakhstan, nằm trong _oblysy_ (tỉnh) Kyzylorda. Nó là trung tâm hành chính của huyện Aral. Dân
**Sa mạc Aralkum** là một sa mạc mới xuất hiện từ năm 1960 trên khu vực đáy biển từng được phủ kín bởi biển Aral. Nó nằm ở phía nam và phía đông của những
**Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes** (, _Barsakelmes memlekettık tabiği qoryğy_) là khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên đảo Barsa-Kelmes của biển Aral, tỉnh Kyzylorda, Kazakhstan. Được thành lập vào năm 1939, khu bảo
Đây là danh sách các hòn đảo được phân chia bởi một hoặc nhiều biên giới quốc tế. ## Đảo biển ## Đảo hồ * _De facto_ giữa Nga (Crimea) (tranh chấp) với Ukraine **
right|thumb|[[Cổ địa lý học đại dương Tethys trong Rupelia tuổi (33,9–28,4 triệu năm trước). Các đường màu đen biểu thị các đường bờ biển ngày nay.]] **Biển Paratethys**, **Đại dương Paratethys** hay chỉ là **Paratethys**
**_Pungitius platygaster_** là một loài cá thuộc họ Gasterosteidae. Nó được tìm thấy ở Afghanistan, Bulgaria, Iran, Kazakhstan, Moldova, România, Nga, Serbia, Montenegro, và Ukraina (Biển Đen, Biển Azov, biển Aral và lưu vực biển
Sông **Amu Darya** (còn gọi là _Amudarya_, _Amudar'ya_, - _Omudaryo_ hay _daryoi Omu_; - _Âmudaryâ_; , , với _darya_ (Pahlavi) nghĩa là biển hay sông rất lớn) là một con sông ở Trung Á. Chiều
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
thumb|Hòn đảo dần nhập vào lục địa vào giữa năm 2001. **Vozrozhdeniya** (tiếng Nga:**Остров Возрождения**, _Ostrov Vozrozhdeniya_, có thể dịch là **đảo Rebirth** hay **đảo Renaissance**) là một hòn đảo nằm trên biển Aral, thuộc
**Kyzylorda** (Kazakhstan: Қызылорда облысы, Qızılorda oblısı; Nga: Кызылординская область, Kyzylordinskaya Oblast), là một tỉnh của nước cộng hòa Kazakhstan, thủ phủ là thành phố Kyzylorda với dân số 157.400 người trên 590.000 là dân số
right **Qaraqalpaqstan** hay **Karakalpakstan** ( hay _Қарақалпақстан Республикасы_; hay ) là một nước cộng hòa tự trị thuộc Uzbekistan. Nó chiếm toàn bộ phần tây bắc của Uzbekistan. Thủ phủ là Nukus (tiếng Qaraqalpaq: No'kis
328x328px|nhỏ|phải|Các quốc gia nội lục theo _[[The World Factbook_. Màu đỏ chỉ quốc gia nội lục bị bao bọc bởi các quốc gia nội lục (Các quốc gia nội lục "kép"). Màu xanh chỉ các
Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]] **Biển Tethys** hay **đại dương Tethys** là một đại dương trong
nhỏ|phải|Một cái hồ nhìn từ trên xuống Hồ Nahuel Huapi, [[Argentina]] [[Hồ Baikal, hồ nước ngọt sâu nhất và lớn nhất theo thể tích]] **Hồ** là những khoảng nước đọng tương đối rộng và sâu
**Truật Xích** (; – ) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ. Tuy cuộc đời gắn liền với những tranh cãi và đồn thổi xung quanh hoàn cảnh sinh đẻ và thân thế
**Syr Darya** (; ; ; , chuyển tự _Syrdarya_ hay _Sirdaryo_) là một sông ở Trung Á, đôi khi còn gọi là **Jaxartes** hay **Yaxartes** từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại ὁ
**Taras Hryhorovych Shevchenko** (tiếng Ukraina: Тарáс Григóрович Шевчéнко; 9 tháng 3 năm 1814 – 10 tháng 3 năm 1861) là Đại thi hào dân tộc, họa sĩ, viện sĩ, chiến sĩ đấu tranh vì dân
::_Phần này chỉ giới thiệu sơ lược về các loại hình thủy vực nước mặn, click vào từng loại hình để xem thông tin chi tiết_ ## Đại dương :_Xem chi tiết tại bài Đại
phải|Bản đồ động chỉ ra các vùng nước đại dương của thế giới. Một khối nước liên tục bao quanh [[Trái Đất, Đại dương thế giới (toàn cầu) được chia thành một số các khu
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Kyrgyzstan** (phiên âm tiếng Việt_: "Cư-rơ-gư-xtan"_, tiếng Kyrgyz: Кыргызстан; tiếng Nga: Киргизия, tuỳ từng trường hợp còn được chuyển tự thành Kirgizia hay Kirghizia, đọc như _"Ki-rơ-ghi-zi-a"_) (đánh vần theo IPA: ), tên chính thức
**Siberia** (, ) là vùng đất rộng lớn gần như nằm trọn trong nước Nga, chiếm gần toàn bộ phần Bắc Á và bao gồm phần lớn thảo nguyên Á-Âu. Siberia trong lịch sử là
**Tự nhiên** hay **thiên nhiên**, theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng
**Kazakhstan** (phiên âm tiếng Việt: _Ca-dắc-xtan_; tiếng Kazakh: Қазақстан Республикасы, _Qazaqstan Respublikasy_; tiếng Nga: Республика Казахстан, _Respublika Kazakhstan_), tên chính thức là **Cộng hòa Kazakhstan** là một quốc gia có chủ quyền trải rộng trên
[[Hồ Tchad trong một bức ảnh vệ tinh năm 2001, với vùng nước màu xanh lam. Từ thập kỷ 1960, hồ đã co lại, giảm 95% diện tích.]] **Sa mạc hóa** hay **hoang mạc hóa**
nhỏ|Lưu vực right|thumb|Ảnh hoạt hình lưu vực [[sông Latorița, Romania Tập tin:Modelare 3D pentru Bazinul Hidrografic al Paraului Latorita.gif|354x354px]] **Lưu vực** là phần diện tích bề mặt đất trong tự nhiên mà mọi lượng nước
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
phải|nhỏ|300x300px|Bão cát trên Turkmenistan **Turkmenistan** là một quốc gia không giáp biển ở Trung Á, giáp biển Caspi ở phía tây, Iran và Afghanistan về phía nam, Uzbekistan ở phía đông và Kazakhstan ở phía
nhỏ|430x430px|Bản đồ Tajikistan Tajikistan nằm giữa Kyrgyzstan và Uzbekistan về phía bắc và phía tây, Trung Quốc về phía đông và Afghanistan về phía nam. Núi non bao phủ 93% diện tích của Tajikistan. Hai
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Thị tộc Nogai** hay **Orda Nogai** (tiếng Nga: Ногайская Орда) – một thể chế nhà nước phong kiến của những người du mục trên vùng lãnh thổ từ phía bắc vùng ven biển Caspi và
**Trận sông Kalka** (, ) diễn ra vào ngày 31 tháng 5 năm 1223 giữa quân Mông Cổ (Triết Biệt và Tốc Bất Đài chỉ huy) và Kiev, Galich, cùng một số thân vương quốc
**Cú đại bàng Á Âu** (danh pháp hai phần: **_Bubo bubo_**), còn gọi là **cú đại bàng**, là một loài cú lớn cư trú ở đại lục Á Âu. Đây là một trong những loài
**Chimboy** hay **Chimbay** (; ; ) là một thị trấn và trung tâm hành chính của huyện Chimboy ở Karakalpakstan, Uzbekistan. Chimboy được xây dựng vào thế kỷ 17, và mang địa vị thị trấn
Hồ Erie, nhìn về phía nam từ dốc nông thôn cao gần [[Leamington, Ontario]] **Hồ Erie** (tiếng Pháp: _lac Érié_; tiếng Anh _Lake Erie_, phát âm như "I-ri"), kề cận về phía bắc với tỉnh
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
nhỏ|Ảnh vệ tinh chụp [[hồ Eyre nơi hứng các nguồn nước chảy vào giữa lục địa Úc
_NASA's Earth Observatory_]] thumbnail|Lòng chảo nội lục: [[biển Aral ở Trung Á]] **Lòng chảo nội lục** còn gọi
**_Sabanejewia aurata_** là một loài cá vây tia thuộc họ Cobitidae. Loài này có ở Albania, Armenia, Áo, Azerbaijan, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Cộng hòa Séc, Hy Lạp, Hungary, Iran, Moldova, România, Nga, Serbia,
phải|Đồng bằng Tây Siberia trên ảnh vệ tinh của [[Bắc Á]] **Đồng bằng Tây Siberia** () là một đồng bằng lớn chiếm phần phía tây của Siberia, giữa dãy núi Ural ở phía Tây và
**Các hoang mạc lạnh giá của Turan** là di sản xuyên quốc gia ở khu vực lịch sử Turan thuộc ba quốc gia Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan được UNESCO công nhận là Di sản thế giới
thumb|[[Hồ Nasser sau đập Aswan, Ai Cập rộng 5250 km² buộc 60000 người di dời ]] **Tác động môi trường của hồ chứa nước** ngày càng được xem xét kỹ lưỡng khi nhu cầu toàn
**_Gymnocephalus_** là một chi của họ Cá vược có nguồn gốc từ Tây Lục địa Á-Âu. Trong tiếng Anh, chúng được gọi chung là _ruffes_ và giống với chi Cá rô (Perca), nhưng thường nhỏ