thumb|498x498px|Bản đồ Cao Miên và Nam Kỳ 1841-1889.
Ang Chan II (1792-1834), tiếng Khmer: អង្គចន្ទទី៣, Ang Chan, còn được gọi là Outey Reachea III, hoặc Udayaraja III, là vua của Campuchia vào thời kỳ 1806-1834. Sách sử Việt Nam gọi ông là Nặc Ông Chăn hoặc Nặc Chăn (chữ Hán: 匿螉禛).
Tiểu sử
Ang Chan là con trai cả của vua Ang Eng (Nặc Ấn, 1772-1796).
Khi vua cha Ang Eng mất vào khoảng năm 1796, Ang Chan còn nhỏ, mới khoảng hơn 4 tuổi, nhân đó vua Xiêm Rama I, không đưa Ang Chan lên ngôi. Thay vào đó, vua Xiêm cử quan bảo hộ tên là Pok, thay cho cựu nhiếp chính Bên (Chao Phraya Abhaya Bhubet, Chiêu thùy Biện), sang Cao Miên cai trị trong 10 năm.
Năm 1806, sau khi Pok chết, triều đình Xiêm La mới chấp nhận đưa Ang Chan lên ngôi vua Cao Miên.
Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lên ngôi hiệu là Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam.
Nặc Chăn sau đó không muốn theo Xiêm La nữa mà sai sai sứ thần là Ốc nha Bôn Lịch đến xin được thần phục vua Gia Long nước Việt Nam.
Năm 1807, Gia Long phong cho Nặc Chăn làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Ngô Nhơn Tĩnh, Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến Chân Lạp, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống tiến mỗi 3 năm 1 lần, lấy năm 1807 làm đầu.
Năm 1809, vua Xiêm La Rama II lên ngôi. Nước Xiêm La bị nước Miến Điện đánh, trưng 5.000 quân ở Chân Lạp. Nặc Chăn sai các em là Nặc Nguyên (Ang Suguon - trùng tên với Chey Chettha VII), Nặc Yêm, và Nặc Đôn đem quân đi và sai Triệu Bồn Nha chạy báo tin cho Gia Định biết.
Năm 1810, Nặc Chăn sai ốc Nha là Ma A Mân Si đưa thư đến Gia Định nói: năm trước sai em là Nặc Nguyên, Nặc Yêm, Nặc Đôn cùng ốc Nha là bọn Cao La Hâm Mang và Trà Tri Biện sang Xiêm, đến nay Xiêm sai Uất Vô Thi đưa bọn Nguyên về, khiến chia đất Chân Lạp cho Nguyên làm vua thứ hai, Đôn làm vua thứ ba, lại đòi 1 vạn binh để đánh Diến Điện, Chăn ngờ Cao La Hâm Mang và Trà Tri Biện thông mưu với nước Xiêm, có ý làm phản, bèn giết đi.
Nặc Chăn đã giết Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện, bè Đảng là Đê Đô Minh giữ đất Bông Xuy và A Phi Phù Biệt Biện đóng đồn ở Bắc Tầm Bôn để làm phản. Nước Xiêm sai tướng là bọn Phi Mã Long Mang và Phi Nhã Na Trật đem trọng binh đến giúp. Chăn cả sợ, sai người đi cầu viện.
Xiêm La đòi Nặc Chăn chia quyền cho các em (Nguyên làm vua thứ 2, Yêm làm vua thứ 3) nhưng Chăn từ chối, Xiêm La liền cho quân sang đánh, buộc Nặc Chăn bỏ chạy sang cầu cứu Việt Nam.
Ba người em trai của Ang Chan là Nguyên, Yêm, Đôn sau đó bỏ theo Xiêm làm quan các tỉnh do Xiêm đang chiếm là Bắc Tầm Bôn (Battambang), Siem Riep, Pursat.
Quân của Nguyễn Văn Nhân đến La Bích. Nặc Chăn đến đón, xin quan quân tiến đánh lấy Bắc Tầm Bôn. Văn Nhân bảo Chăn đem quân trong nước đi trước. Chăn từ chối, nói không có quân, Văn Nhân đem tình trạng tâu lên.
Nguyễn Văn Nhân đóng quân ở La Bích. Tướng Xiêm là Phi Nhã Long Mang ở Bắc Tầm Bồn sợ không dám động quân, người đưa thư đến Nặc Chăn nói: "Trước đây vì Diến Điện xâm lấn cho nên đòi binh viện trợ. Nay Diến Điện đã lui nên bãi việc đòi binh".
Nguyễn Văn Nhân rút quân về. Nặc Chăn lấy cớ nước mới yên định, tình dân chưa yên, xin lưu quân lại bảo vệ. Vua Gia Long sai Nguyễn Văn Tồn (người gốc Khmer làm quan Việt Nam) đem 1.000 binh đồn Uy viễn (nay thuộc Trà Ôn, Vĩnh Long) đến đóng ở Chân Lạp.
Tân mùi, Gia Long năm thứ 10 [1811], nước Chân Lạp sai sứ đến cống, và xin đổi quốc hiệu làm Ân Di Bắc Phủ Lài. Vua Gia Long không cho.
Nặc Nguyên trốn đến Phủ Lật (tức Pursat), nhiều tội nhân trốn của nước ấy đi theo, sửa sang binh khí để tự giữ, xin cắt cho đất ba phủ (Phủ Ca Khu, phủ Lòng, phủ Trung) để ở, lại sai người cầu viện với Xiêm, Xiêm sai tướng là Phi Nhã Nhâm Ba Lạc đóng quân ở Bắc Tầm Bôn, thế rất dữ tợn. Nặc Chăn sợ, báo gấp cho Gia Định. Tổng trấn Nguyễn Văn Nhân đem việc tâu lên. Sai trấn thủ Định Tường là Nguyễn Văn Thụy (Thoại) đem quân đến La Bích, nói phao là đi lấy gỗ, để viện trợ ngầm.
Năm 1812, Nặc Nguyên đem quân Xiêm về cướp thành La Bích (Cuộc nổi loạn Campuchia (1811-1812)). Quân Xiêm chia làm năm đạo đánh xuống. Nặc Yêm và Nặc Đôn đều chạy sang với người Xiêm. Nặc Chăn bỏ thành chạy về Nam Vang. Vừa đó quân của Nguyễn Văn Thụy đến, đưa Chăn đi Gia Định, còn quân Việt thì đóng ở Lô Yêm để giúp dân Chân Lạp dời chạy vào nội địa.
Năm 1812, Gia Long sai Tổng trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt và Hiệp tổng trấn là Ngô Nhân Tĩnh đại phát thủy binh hơn 13.000 người đưa quốc vương Chân Lạp là Nặc Chăn về nước. Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnôm Pênh) và thành La-Lêm.
Quan quân của Gia Long cũng cho sửa đền thờ Khai quốc công thần Nguyễn Hữu Kính (đền ở Nam Vang; trước kia Nguyễn Hữu Kính đi kinh lược Chân Lạp đóng quân ở đấy; sau khi chết, dân Chân Lạp làm đền thờ ngay đấy, gọi là đền Lễ công).
Khi xây xong thành Nam Vang (Phnôm Pênh) và thành La-Lêm. Gia Long cho Lê Văn Duyệt rút quân về, cho Nguyễn Văn Thoại đem 1.000 quân sang trấn giữ thành Nam Vang và xác lập quyền "bảo hộ" Chân Lạp.
Nặc Chăn chuyển thủ đô từ Udong về Phnôm Pênh. Hai lần liền trong 1 tháng Nặc Chăn đến ngôi đền của người Việt gần Phnôm Pênh cúng bái để thể hiện sự biết ơn với vua Gia Long đã giúp đỡ ông chiến thắng trong cuộc chiến.
Năm 1816, bảo hộ Chân Lạp là Nguyễn Văn Thụy ốm xin giải chức; sai Chưởng cơ Lưu Phước Tường thay.
Năm 1824, Nặc Chăn, hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
Năm 1833, quân Xiêm cùng Nặc Yêm, Nặc Đôn (Nặc Nguyên đã chết 1 năm trước đó) tấn công Chân Lạp và Đại Nam (Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834)). Lần đánh này phe Xiêm thất bại.
Cuối năm giáp ngọ (1834), Nặc Chăn mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam.
Đến năm ất mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Chăn tên là Ang mey (Ngọc Vân) lên làm quận chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm 1843, người Xiêm đưa Ang Duong (Nặc Ông Đôn - là em trai sống ở Xiêm của vua Nặc Chăn, và là chú ruột nữ vương Ang Mey) lên ngôi ở U Đông.
thumb|Các địa danh Nam Kỳ và Cao Miên (Trấn Tây) gọi theo cách gọi của người Việt: Thông Bình (Thong bigne F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lô An (Lou-an), La Kiết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to).
Gia quyến
Vua Ang Chan có ít nhất bốn người vợ, nhưng đều không có con trai nối ngôi:
Vương phi Tép (Anak Munang Devi), là con gái của cựu nhiếp chính Bên (Chao Phraya Abhaya Bhubet, Chiêu thùy Biện) tỉnh trưởng tỉnh Battambang, 1 tỉnh bán tự trị lệ thuộc vào cả Xiêm và Chân Lạp huyện quân. Do có mẹ sống ở tỉnh thân Xiêm và có quan điểm thân Xiêm nên bị nhà Nguyễn không cho nối ngôi. Có lẽ bị giết năm 1840 ở dinh Long hồ sau vụ án Ngọc Biện thông đồng với phe thân Xiêm.
Vương phi Krachap (Anak Munang Krachap)
Sinh ra công chúa Ang Mey (Ngọc Vân 玉雲, Samdach Brhat Anak Angga, Mei, Khieu (1815-1874?). Được phong Cao Miên quận chúa, nối ngôi vua cha.
*Vương phi Pèn (Anak Munang Pen, em gái của vương phi Krachap)
*Sinh ra công chúa Ang Snguon (Ngọc Nguyên 玉源) (1829-1875). Được phong Tạp Ninh huyện quân
Vương phi Yos (Anak Munang Yos)
Sinh ra hoàng tử Poukombo (mất sau khi sinh vài giờ, năm 1818)
**Công chúa Ang Pou (Ngọc Thu 玉秋, Samdach Brhat Maha Uparajini, Puyani) (1822-1878). Được phong Thâu Trung huyện quân. Năm 1855, tái giá với người chú Ang Duong.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|498x498px|Bản đồ Cao Miên và Nam Kỳ 1841-1889. **Ang Chan II** (1792-1834), tiếng Khmer: អង្គចន្ទទី៣, **Ang Chan**, còn được gọi là **Outey Reachea III**, hoặc **Udayaraja III**, là vua của Campuchia vào thời kỳ 1806-1834.
**Ang Non II **(1739 - 1779) làm vua Chân Lạp từ 1775 đến 1779 với hiệu là Ramaraja hoặc « _Ramathipadi IV_ ». Nak Ong Non phiên âm tiếng Việt là Nặc Non, Nặc Ông
**Ang Nan** (tiếng Việt: Nặc Ông Nộn, Nặc Nộn 匿嫩) (1654-1691) là phó vương của Chân Lạp, hiệu là Padumaraja, làm vua Chân Lạp dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn từ năm 1682 đến
**Ang Mey** (, , 1815 – 1874) là một nữ vương tại ngôi ở Cao Miên hơn mười năm từ 1835 đến 1847. Vương hiệu của bà là **Samdech Preah Maha Rajini Ang Mey.** Bà
**Ang Em** (hoặc Ang Im, sử Việt gọi là Nặc Yêm 匿俺) (1794-1843) là hoàng tử Chân Lạp, con trai của vua Ang Eng (Nặc Ấn). Anh cả của ông là vua Ang Chan II
thumb|Mộ vua Ang Duong. **Preah Bat Ang Duong**(1796-19 tháng 5 năm 1860) (trị vì 1841-1844, 1845-1860), (, ), tên phiên âm Hán-Việt là **Nặc Ông Đôn, Nặc Ong Đuông** (匿螉) hay **Nặc Ong Giun, Sá
**Outey II **(1739 - 1777), là vua Chân Lạp, hiệu là _Outey Reachea II hoặc Udayaraja II_. Tên húy là Ang Ton (Nak Ong Ton). Tiếng Việt gọi là Nặc Tôn, Nặc Ông Tôn, chữ
**Satha II** (1702-1749) là vua Chân Lạp các giai đoạn 1722-1736, 1749. Tên húy là Ang Chee hoặc Ang Chey (Nặc Ông Tha, ). Hiệu là "Paramaraja X". ## Tiểu sử Satha II là con
**Ang Eng** (tiếng Khmer: អង្គអេង; tiếng Việt: Nặc Ấn (匿印) hoặc Nặc In; 1772 – 08/11/1796) là vua Chân Lạp từ năm 1779 đến khi mất năm 1796. Xưng hiệu là Noreay
**Chettathirat** (, ) hay **Ramathibodi II** (; 1472/73 – July/10 October 1529) là Tiểu vương của Sukhothai trong giai đoạn 1485 đến 1491 và là Quốc vương thứ 10 của Vương quốc Ayutthaya, trị vì
**F-35 Lightning II** (Tia chớp) (viết tắt: F-35) là tên gọi chung cho 3 biến thể máy bay khác nhau dựa trên thiết kế cơ sở X-35 của dự án phát triển máy bay tiêm
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Trấn Tây Thành** (chữ Nho: 鎮西城, chữ Khmer: ត្រាន តាយ ថាញ់) là một Trấn của nước Đại Nam nhà Nguyễn giai đoạn 1835 đến 1841. Đây là vùng lãnh thổ thuộc Đông Nam Campuchia ngày
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**Padumaraja I** (1615-1642) là vua Chân Lạp giai đoạn 1640-1642. Tên húy là Ang Non, hiệu khác là Batom Reachea IV, còn được gọi là Ang Nan I hoặc Ang Non I (Nặc Nộn đệ
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
Cuộc nổi loạn của người Campuchia năm 1811-1812 xảy ra khi lực lượng người Xiêm (Thái Lan) đã hỗ trợ Ang Snguon (Nặc Nguyên - con trai vua Ang Eng), sau khi Ang Snguon lật
**Keo Fa II** (Ang Chea, tiếng Việt: Nặc Ông Đài) (1652-1677) là vua Chân Lạp giai đoạn ngắn ngủi từ 1673 đến 1674. ## Tiểu sử Ang Chea (Nặc Ông Đài 匿螉苔) là người con
**Chao Phraya Bodin Decha** (1777-1849) (), là viên tướng Thái Lan đầu thế kỷ 19. ## Thân thế và sự nghiệp Ông tên thật là **Sing Singhaseni** (สิงห์ สิงหเสนี). Ông còn được gọi với các
****Chey** Chettha II** hay **Chay Chettha II** (1573 hoặc 1577 -1627) là vua Chân Lạp giai đoạn 1618-1627. Tên húy là Ponhea Nhom (tiếng Khmer: ជ័យជេដ្ឋាទី២). ## Tiểu sử Ponhea Nhom là con trai cả
**Doãn Uẩn** (chữ Hán: 尹蘊, 1795-1850), tự là **Nhuận Phủ**, **Ôn Phủ**, hiệu là **Nguyệt Giang**, **Tĩnh Trai**, là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tập tin:Formosa Hà Tĩnh 7.jpeg **Formosa Vũng Áng** là một công ty nằm trong khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh. Formosa có tên chính thức là Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa
**Thommo Reachea II** (1602-1632) là vua Chân Lạp giai đoạn 1629-1632. Tên húy là Chan Ponhéa Sô hoặc Ponhea To (_Cau Bana Tu_). ## Tiểu sử Ponhea là người con trai lớn nhất của vua
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Ang Em** (tiếng Việt: Nặc Ông Yêm 匿螉淹) (1672-1696) là vua Chân Lạp các giai đoạn 1700-1701, 1710-1722. Tên húy là Ang Em. Hiệu là "**Keo Fa III**" và "**Barom Ramadhipati**". ## Tiểu sử Ang
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là **Hợp Thần Thăng Thụ** hoặc **Hợp Thời Thăng Thụ**) Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
**Ang Tong ** (1692-1757) (tiếng Việt gọi là Nặc Đôn, ) là con của vua Outey I. Ang Tong trị vì Chân Lạp vì từ năm 1748 đến 1757 với hiệu là _Ramathipadi III_. ##
**Ang Tong Reachea** (1602-1640) là vua Chân Lạp giai đoạn 1632-1640. Tên húy là Ponhea Nou. ## Tiểu sử Ponhea Nou là người con trai thứ hai của vua Chey Chettha II. Lên ngôi sau
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**Mafia II** là một trò chơi bắn súng góc nhìn thứ ba kết hợp với yếu tố phiêu lưu và là phần tiếp theo của Mafia: The City of Lost Heaven. Nó được phát triển
**Rattanakosin** () hay **Xiêm** (สยาม) (1782-1932) là tên nước Thái Lan vào đầu thời Triều Chakri. Xiêm là một quốc gia quân chủ tuyệt đối hùng mạnh, có các chư hầu là Campuchia, Lào, và
**Hà Âm** (chữ Hán: 河陰) là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn Việt Nam. Ngày nay là phần đất thuộc các huyện phía Nam của tỉnh Takéo Campuchia, vùng đất phía
**Chaophraya Aphaiphubet (Baen)** ( , ,? – 1811), còn được gọi là **Chaofa Talaha (Baen)** ( , ) hoặc **Chau Hua Pen** ( ), là một vị quan người Campuchia, sau này là một thống
MÔ TẢ SẢN PHẨMKem dưỡng ẩm làm trắng White Conc Watery Cream II 90g Gel White Conc hàng Nhật*THÔNG TIN SẢN PHẨM✔️White Conc Watery Cream có chiết xuất nhau thai ở lỏng dễ dàng hấp
**An Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, An Giang có diện tích: 9.889 km², xếp thứ 13; dân
**Lịch sử hành chính An Giang** được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Sau
**Tịnh Biên** là một thị xã miền núi biên giới thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. phải|Trên đỉnh [[núi Cấm thuộc xã An Hảo]] ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thị xã Tịnh
Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]] **Thoại Ngọc hầu** (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là **Nguyễn Văn Thoại** (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch
**Hà Tiên** (chữ Hán: _河僊_) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832. ## Lịch sử ### Vùng đất Hà Tiên xưa Xưa kia, đây là vùng
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
**Sdach Korn** ()**,** Neay Kan hay _Preah_ **Sdech Kan** () còn được gọi là **Srei Chettha II** () hoặc **Srei Chetha Thireach Reameathiptei** () là vua Campuchia từ 1512 đến 1525. Kan là vị
20 CÔNG DỤNG HỮU HIỆU CỦA DẦU DỪA CHO SỨC KHỎE Hỗ trợ đ iều tr ị bệ nh Alz heimer Bổ sung chế độ ăn uống với dầu dừa giúp cải thiện tình trạng
20 CÔNG DỤNG HỮU HIỆU CỦA DẦU DỪA CHO SỨC KHỎE Hỗ trợ đ iều tr ị bệ nh Alz heimer Bổ sung chế độ ăn uống với dầu dừa giúp cải thiện tình trạng