✨Ang Eng

Ang Eng

Ang Eng (tiếng Khmer: អង្គអេង; tiếng Việt: Nặc Ấn (匿印) hoặc Nặc In; 1772 – 08/11/1796) là vua Chân Lạp từ năm 1779 đến khi mất năm 1796. Xưng hiệu là Noreay Reachea III hoặc Narayanaraja III.

Ang Eng là con trai của vua Outey II (húy Ang Ton - Nặc Tôn, Nặc Ông Tôn).

Tiểu sử

Năm 1771, quân Xiêm lại tấn công Chân Lạp. Cuối cùng, các bên tiến đến một thỏa hiệp, theo đó người anh Nặc Non (Ang Non) sẽ làm đệ nhất vương, người em Nặc Tôn (Ang Ton) sẽ làm đệ nhị vương (hiệu Maha Uparayoj), và hoàng tử Tam (Nặc Thâm) là làm nhiếp chính (Maha Uparat) cho cả đệ nhất và đệ nhị vương. Thỏa hiệp này không làm thỏa mãn các bên. Tam bị ám sát, trong khi đệ nhị vương đột ngột từ trần.

Cho rằng quốc vương Ang Non phải chịu trách nhiệm về những việc này, nhiều quan chức cao cấp dưới quyền lãnh đạo của vương tử Talaha (Mu hoặc Fa Thalaha, Chiêu Chùy Mô) nổi loạn, bắt Ang Non bỏ vào lồng sắt và ném xuống hồ Khayong gần Phanom Kamraeng vào năm 1780. Cũng có thuyết nói là Ang Non bị ám sát bởi quân Việt và bốn người con của ông bị giết ở thành Banthaiphet vào tháng 8-1779 bởi Phraya Wibunrat (Su) Samdach Chau Phraya Kalahom).

Chiêu Chùy Mô (Tể tướng Mô) đưa Ang Eng (Nặc Ấn hoặc Nặc Ong In - con Ang Ton) mới bốn tuổi làm quốc vương, còn bản thân thì làm nhiếp chính, song ông ra nghiêng quá nhiều về phía chúa Nguyễn, do đó xung đột với chính sách của Taksin là ủng hộ một nhân vật thân Xiêm trên vương vị Cao Miên.

Việt Nam sử lược thì cho rằng: Năm 1779, Nguyễn Ánh sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân và Dương Công Trừng đem quân đi đánh Chân Lạp. Chân Lạp tự khi Nặc Vinh giết Nặc Thâm thì Nặc Tôn buồn bực mà chết. Bề tôi là Chiêu Chùy Mô và Đê Đô Luyện giữ Phong Xuy để chống Nặc Vinh, Vị Bôn Xuy giữ La Bích để hưởng ứng, và cầu viện ở dinh Long Hồ. Vua sai bọn Thanh Nhân đi đánh, bắt Nặc Vinh giết đi, lập con Nặc Tôn là Nặc ấn làm vua, lưu Văn Lân ở lại bảo hộ.

Tháng 10 năm tân sửu (1781) vua nước Xiêm La là Taksin (Trịnh Quốc Anh) sai hai đại tướng là Chao Phraya Chakri (tiếng Thái เจ้าพระยาจักรี Chaophraya Mahakasatsuk hoặc Maha Kasatsuek, sử Việt hay gọi là Chất Tri, sau này là vua Rama I của Xiêm La) và Surasi (sử Việt gọi là Sô Si, em trai Chất Tri, sau này làm phó vương, hiệu là Maha Surasinghanat), hai anh em sang đánh Chân Lạp với một đạo quân Xiêm gồm 20.000 binh sĩ. Trong trường hợp chinh phục thành công sẽ đưa con của Taksin là Vương tử Intarapitak (Chuy (Chao Fa Chui) เจ้าฟ้าจุ้ย, Phra Ong Chao Chui พระองค์เจ้าจุ้ย.) làm vương của Cao Miên.

Nguyễn Ánh sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La còn đang chống giữ nhau ở Chân Lạp, thì ở Vọng Các vua nước Tiêm La là Taksin bắt giam cả vợ con của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn.

Đoạn rồi Chất Tri đem quân về Tiêm La. Lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua nước ấy bị tướng Phan Nha Văn Sản (Phraya San) đuổi đi cướp mất ngôi. Chất Tri về đến Vọng Các, sai người đi tìm quốc vương là Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sản, rồi tự lập làm vua, xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hãy còn, và các vua đều xưng là Rama.

Sách Đại Nam Thực Lục chép:

Nhâm dần, năm thứ 3 [1782] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 43, Thanh ? Càn Long năm thứ 47), mùa xuân, tháng giêng, sai giám quân Trung dinh là Chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy đem binh thuyền cùng với Hồ Văn Lân đi cứu viện nước Chân Lạp. Quân đến La Bích, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh (có thuyết là Trịnh Sinh) bị bệnh thần kinh, bắt tù cả vợ con Chất Tri và Sô Si, Chất Tri và Sô Si oán. Khi quân ta đến, bèn họp nhau bàn bạc.
Sô Si nói:  “Vua ta vô cớ bắt tù vợ con chúng ta, chúng ta dù có hết sức liều chết thì ai biết cho, chi bằng cùng với người Hán(1. Tài liệu của nhà Nguyễn tự gọi người nước ta là người Hán. 1) xin hòa, kết làm ngoại viện”. Chất Tri nói: “Điều đó rất hợp ý tôi”. Bèn sai người đến quân Hữu Thụy cầu hòa, và mời đến trại để hội ước. Hữu Thụy nhận lời. Khi sứ Xiêm ra rồi, em Hữu Thụy là Hựu can rằng: “Người Man hay dối trá, sợ có biến thì sao?”. Hữu Thụy nói:  “Ta tính toán đã kỹ rồi. Vua Xiêm vô cớ mà bắt giam vợ con họ nên họ muốn nhờ ta làm viện binh, lời xin của họ không phải là dối đâu. Huống chi ta đã nhận lời mà không đi thì họ cho ta là nhát”.
Sáng mai Hữu Thụy đem vài mươi người đi theo thẳng vào trại quân Xiêm. Quân Xiêm nhìn nhau ngơ ngác. Chất Tri và Sô Si đón vào khoản đãi rất hậu, đều đem lòng thực bày tỏ, rượu say rồi bẻ mũi tên để thề. Hữu Thụy nhân đó đem ba bảo vật là cờ, đao và kiếm tặng cho rồi trở về. Lúc đó nước Xiêm vừa có giặc ở thành Cổ Lạc nổi lên, Trịnh Quốc Anh sai Phi Nhã Oan Sản đi đánh. Tướng giặc ấy là em Oan Sản, Oan Sản bèn đảo qua hợp quân đánh thành Vọng Các. Người trong thành mở cửa cho vào. Trịnh  Quốc Anh nghe tin biến, trốn vào chùa, Oan Sản bắt giam lại, chạy tin báo cho Chất Tri về nước.
Chất Tri được báo, cho rằng mình đã cùng Hữu Thụy nghị hòa, không lo về sau nữa, bèn luôn đêm đem quân về thành Vọng Các. Khi sắp đến nơi, ngầm sai người giết Trịnh Quốc Anh mà đổ tội cho Oan Sản, phơi bày tội ác, buộc tội làm loạn, khóa giam ở nhà riêng rồi giết đi. Chất Tri uy hiếp dân chúng để tự lập nhà vua Xiêm La, tự hiệu là vua Phật (vì tục Xiêm rất chuộng đạo Phật, nên gọi như thế), phong cho em là Sô Si làm vua thứ hai, cháu là Ma Lặc làm vua thứ ba. Những nạn dân nước ta trước bị Trịnh Quốc Anh đày đi nơi khác đều được thả về thành Vọng Các, cấp cho tiền gạo, nuôi nấng đầy đủ. Hữu Thụy đem việc ấy báo lên. Vua cho rút quân.
Từ năm 1782, quân Tây Sơn liên tục tiến đánh nên Nguyễn Ánh không giữ được Gia Định và Chân Lạp nữa.

Năm 1783, nước Chà Và (có thể là cướp biển người Java) đánh nước Chân Lạp. Nước Chân Lạp loạn, vua Nặc Ấn chạy sang Xiêm.

Chất Tri (Rama I) sau đó giữ Ang Eng ở lại Vọng Các làm con nuôi, sai thuộc hạ là Chao Phraya Abhaya Bhubet (nhiếp chính Bên, Chiêu thùy Biện, Chiêu Chùy Biện, một người Khmer thân Xiêm) qua làm chức nhiếp chính vương Chân Lạp.

Năm 1794, Rama I rút Chiêu Thùy Biện về giữ tỉnh Bắc Tầm Bôn, cho Ang Eng trở về Chân Lạp để lên ngôi quốc vương, hiệu là Narairaja III. Các đất Xiêm Riệp, Battambang và các vùng phía Tây Chân Lạp đều thuộc về Xiêm La quản lý.

Ang Eng mất 1796, con là Ang Chan còn nhỏ, mới khoảng hơn 4 tuổi, nhân đó vua Xiêm Rama I không đưa Ang Chan lên ngôi. Thay vào đó, vua Xiêm cử quan bảo hộ tên là Pok, thay cho cựu nhiếp chính Bên (Bhubet, Chiêu thùy Biện), sang Cao Miên cai trị trong 10 năm.

Năm 1806, sau khi Pok chết, triều đình Xiêm La mới chấp nhận đưa Ang Chan về nước để lên ngôi vua Cao Miên.

Con cái

  1. Với vợ Moneang Aut
  • Ang Chan (1792-1834) (Nặc Chăn) sau lên ngôi vua là Outey III.
  • Ang Snguon (1794-1822) (Nặc Nguyên - trùng tên với Chey Chettha VII), thân Xiêm, chống Ang Chan, sau chết ở Xiêm..
  1. Với vợ Moneang Ke
  • Ang Phim (chết trẻ)
  1. Với vợ Moneang Ros
  • Ang Em (Nặc Yếm, Nặc Yêm, Nặc Yểm hoặc Nặc Ong Em - trùng tên với Keo Fa III) (1794-1843), Ang Em thân Xiêm, từng theo tướng Xiêm là Chất Tri (Bodin) chống lại Ang Chan. Sau Ang Em lại hàng Đại Nam và mất năm 1843. Con Ang Em là Nặc Ong Bướm sau cũng làm quan thân Đại Nam.
  • Ang Duong (Nặc Đôn), thân Xiêm, chống Ang Chan, sau cũng lên làm vua.

Nguồn

  • Achille Dauphin-Meunier Histoire du Cambodge Que sais-je ? N° 916, P.U.F Paris 1968.
  • Anthony Stokvis, Manuel d'histoire, de généalogie et de chronologie de tous les États du globe, depuis les temps les plus reculés jusqu'à nos jours, préf. H. F. Wijnman, Israël, 1966, Chapitre XIV §.9 " Kambodge " Listes et tableau généalogique n°34 p. 337-338.
  • Peter Truhart, Regents of Nations, K.G Saur Munich, 1984–1988, ISBN|359810491X, Art. " Kampuchea ", p. 1732.
  • Khin Sok " Quelques documents khmers relatifs aux relations entre le Cambodge et l'Annam en 1843 ". Dans: Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient. Tome 74, 1985. p. 403-421.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ang Eng** (tiếng Khmer: អង្គអេង; tiếng Việt: Nặc Ấn (匿印) hoặc Nặc In; 1772 – 08/11/1796) là vua Chân Lạp từ năm 1779 đến khi mất năm 1796. Xưng hiệu là Noreay
thumb|Mộ vua Ang Duong. **Preah Bat Ang Duong**(1796-19 tháng 5 năm 1860) (trị vì 1841-1844, 1845-1860), (, ), tên phiên âm Hán-Việt là **Nặc Ông Đôn, Nặc Ong Đuông** (匿螉) hay **Nặc Ong Giun, Sá
thumb|498x498px|Bản đồ Cao Miên và Nam Kỳ 1841-1889. **Ang Chan II** (1792-1834), tiếng Khmer: អង្គចន្ទទី៣, **Ang Chan**, còn được gọi là **Outey Reachea III**, hoặc **Udayaraja III**, là vua của Campuchia vào thời kỳ 1806-1834.
**Ang Em** (hoặc Ang Im, sử Việt gọi là Nặc Yêm 匿俺) (1794-1843) là hoàng tử Chân Lạp, con trai của vua Ang Eng (Nặc Ấn). Anh cả của ông là vua Ang Chan II
**Ang Chan I** (; 1476 – 1566) là vua Campuchia trị vì từ năm 1516 đến 1566. Ông được coi là một trong những vị vua Campuchia lừng lẫy nhất của thời kỳ hậu Angkor.
**Ang Non II **(1739 - 1779) làm vua Chân Lạp từ 1775 đến 1779 với hiệu là Ramaraja hoặc « _Ramathipadi IV_ ». Nak Ong Non phiên âm tiếng Việt là Nặc Non, Nặc Ông
Chân vịt tê cay 🦆 ngon zức nách 🐥Chân vịt Da Cheng 🦆🦆🦆 đặc sản Phúc Kiến Trung Quốc mọi ng nhé. 💥Loại này đóng gói từng chân nên ăng eng mua để ăn dần
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**Chaophraya Aphaiphubet (Baen)** ( , ,? – 1811), còn được gọi là **Chaofa Talaha (Baen)** ( , ) hoặc **Chau Hua Pen** ( ), là một vị quan người Campuchia, sau này là một thống
**Outey II **(1739 - 1777), là vua Chân Lạp, hiệu là _Outey Reachea II hoặc Udayaraja II_. Tên húy là Ang Ton (Nak Ong Ton). Tiếng Việt gọi là Nặc Tôn, Nặc Ông Tôn, chữ

**Thommo Reachea I** (sinh năm 1446 - mất năm 1494) hay (sinh năm 1446 hoặc 1456 qua đời 1494 hoặc 1504) , là vua của Campuchia từ 1474 để 1494 hay từ 1478 để
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
Peel nho hữu cơ là sản phẩm peel da h-o-á h-ọ-c, a-n t-o-àn và hi-ệu quả nhất hiện nay. Kết hợp kèm tinh chất bột nho h-ữ-u c-ơ giúp da t-ẩ-y t-ế b-à-o c-h-ế-t và
Mô tả sản phẩm: Thành phần Khair ( Keo Cao ): Trong phương pháp yh ọc và làm đ ẹp cổ truyền Ayur veda của Ấn Độ, Keo Cao được sử dụng trong rasayana (
Cuộc nổi loạn của người Campuchia năm 1811-1812 xảy ra khi lực lượng người Xiêm (Thái Lan) đã hỗ trợ Ang Snguon (Nặc Nguyên - con trai vua Ang Eng), sau khi Ang Snguon lật
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
Nạ Mắt Bioaqua Xóa Thâm-Quầng Mắt Hộp 60 MiếngMa.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công
Ma.sk giúp giảm n.ếp nh.ăn, quầng thâ.m quanh m.ắt, tan bọng mắ.t và ch.ống chả.y xệ giúp cho khuôn m.ặt trẻ trung hơn nhiều đó ạCó công dụ.ng cấ.p ẩ.m, thư giã.n m.ắt sử dụng
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là **Hợp Thần Thăng Thụ** hoặc **Hợp Thời Thăng Thụ**) Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Si Votha** (tiếng Khmer: **ស៊ីវត្ថា**, hay **Si Vattha**) (khoảng 1841 - 31 tháng 12 năm 1891) là một hoàng tử của Campuchia. Ông đã dành cả cuộc đời của mình để chiến đấu với người
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Sóc Trăng** là một tỉnh cũ ven biển nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tên gọi Sóc Trăng do từ
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Taksin Đại đế** (, , ) hay **Quốc vương Thonburi** (, , tiếng Trung giản thể: 郑 昭; tiếng Trung phồn thể: 鄭 昭; bính âm: Zhèng Zhāo; tiếng Triều Châu: Dên Chao; tiếng Việt:
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Phương án bính âm Hán ngữ** (giản thể: 汉语拼音方案, phồn thể: 漢語拼音方案, Hán Việt: _Hán ngữ bính âm phương án_), thường gọi ngắn là **bính âm**, **phanh âm** hay **pinyin**, là cách thức sử dụng
**Malaysia** tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007 tại thành phố Nakhon Ratchasima, Thái Lan từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 12 năm 2007. ## Thành tích ### Bảng huy chương
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Szymon Majewski** (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1967 tại Warsaw) là một nhà báo, người dẫn chương trình truyền hình và chương trình phát thanh, diễn viên truyền hình và diễn viên điện ảnh
**Hoa hậu Trái Đất 2001** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần đầu tiên, được tổ chức vào ngày 28 tháng 10 năm 2001 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Thành phố
**Mueang Lop Buri** () là huyện thủ phủ (_Amphoe Mueang_) của tỉnh Lopburi, miền trung Thái Lan. trái|nhỏ|Sông Lopburi ## Địa lý Tây nam huyện là đồng bằng thấp, phần còn lại là các khu
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Quyền lộ [[Trần thức Thái cực quyền|Trần gia Thái cực quyền]] **Thái cực quyền** (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai
**Nam Cường** là một xã nằm ở phía tây của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã Nam Cường có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Đồng Phúc và xã Quảng
**Cải Viên** là một xã thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Xã Cải Viên nằm ở phía đông bắc huyện Hà Quảng, có vị trí địa lý: *Phía đông