**Chey Chettha II hay Chay Chettha II** (1573 hoặc 1577 -1627) là vua Chân Lạp giai đoạn 1618-1627. Tên húy là Ponhea Nhom (tiếng Khmer: ជ័យជេដ្ឋាទី២).
Tiểu sử
Ponhea Nhom là con trai cả của vua Borommaracha VII. Ông bị giữ làm con tin ở Xiêm từ 1594 đến 1604. Ông được thừa hưởng ngôi vua sau khi vua cha thoái vị.
Vương quốc của ông thời kỳ đó đang phải chống chọi lại những ảnh hưởng chi phối lên Chân Lạp của vương quốc Ayutthaya. Vương quốc Ayutthaya ngày càng trở nên lớn mạnh do những chiến thắng trước các vương quốc thuộc Miến Điện, Lào, Chân Lạp.
Nhằm tìm lại độc lập và khôi phục sức mạnh của vương quốc, nhà vua đã cho bỏ kinh đô cũ Longvek và xây dựng lại kinh đô mới tại Oudong năm 1618.
Để khôi phục lại bá quyền của mình, vua Xiêm đã tiến đánh Chân Lạp nhưng đều bị chống trả mạnh mẽ, như trận tại tỉnh Kampong Chhnang lãnh đạo bởi chính nhà vua, cách hồ Boeung Kak khoảng 50 km. Và năm tiếp theo tại tỉnh Banteay Meanchey lãnh đạo bởi người em trai của ông là Outey.
Năm 1620, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã thiết lập được mối quan hệ với Chân Lạp. Năm 1623, công ty này đã cho xây dựng 1 trạm tiền đồn bên sông Mê Kông tại Kompong Luong, cảng sông gần Oudong.
Mối quan hệ với Đàng Trong
Để nhằm cân bằng ảnh hưởng của Xiêm La lên trên Chân Lạp, ông đã liên kết với Chúa Nguyễn ở Đàng Trong Việt Nam bằng việc lấy con chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Công nữ Ngọc Vạn năm 1620.
Năm 1623, một sứ bộ Đàng Trong được cử tới Oudong, đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm để tỏ tình thân hữu và bảo đảm sự ủng hộ của triều đình chúa Nguyễn, Chey Chettha II đã chấp thuận nhượng 1 dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay) và lập 1 thương điểm (đồn thu thuế) là bên bờ sông Sài Gòn và xứ Prei Nokor trên bờ kênh Tàu Hủ, thuộc địa phận Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, để tiến hành thu thuế.
Việc định cư ở vùng đất mới này là khởi đầu cho việc người Việt mở rộng bờ cõi trước kia từ thời vua Lê Thánh Tông năm 1471 và dần hoàn thiện trong các thế kỷ sau này.
Qua đời
Nhà vua qua đời năm 1627. Sau đó người em trai là Outey làm nhiếp chính vương 2 năm (1627-1629). Con trai Chey Chettha II là Chan Ponhéa Sô lên ngôi, sau khi rời tu viện để hoàn tục.
Con cái
-
Với công chúa Anak Munang Sukriyi [Suk].
:*Hoàng tử: Chan Ponhéa Sô (Ponhea To - Cau Bana Tu). Lên ngôi vua hiệu là Thommo Reachea II. Thừa kế sau 2 năm vua cha mất. Giữ ngôi 1629 -1632. Ngoại tình với em gái cùng cha khác mẹ và bị chú giết.
-
Với công chúa Thong (Anak Munang Dhani).
:Hoàng tử: Ponhea Nou (Cau Bana Nu). Lên ngôi vua hiệu là Ang Tong Reachea. Giữ ngôi 1632-1640.
:Công chúa: Ang Vathi. Được hứa gả cho Chan Ponhéa Sô (Thommo Reachea II) nhưng sau lại bị gả cho chú ruột là Outey. Ngoại tình với (Thommo Reachea II) và cả hai bị Outey giết.
-
Với quý tộc người Lào tên Bossa (Anak Munang Puspa).
:*Hoàng tử: Ponhea Chan. Lên ngôi hiệu là Ramathipadi I. Giết vua Padumaraja I (em họ - con của Outey) và chú Outey. Giữ ngôi 1642-1658.
-
Với Hoàng hậu Công nữ Ngọc Vạn (xứ Đàng Trong).
:* Công chúa: Neang Nhéa Ksattrey (hoặc Nea Puspavathi Kshatriyi, Anga Nha (Ngọc Nhã?)). Bà sinh năm 1611, sau này cưới Barom Reachea VIII (con trai của chú Outey).
Tuy nhiên, theo Christopher Buyers thì cuộc hôn nhân của Chey Chettha II và hoàng hậu Ngọc Vạn như sau:
Ngọc Vạn sinh khoảng năm 1605 (mất khoảng năm 1658), được gả cho Chey Chettha II vào năm 1620 và được phong hoàng hậu, hiệu là (Brhat Mae Samdach Bhagavati Brhat) Sri Vararajini Kshatriyi. Nhũ danh của Ngọc Vạn là Anak Anga Cuv [Cheou] hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn. Họ có với nhau các con là:
- Công chúa (Brhat Pada Amachas) Nea Puspavathi Kshatriyi [Anga Nha]. Được hứa gả cho anh trai cùng cha khác mẹ là Chan Ponhéa Sô nhưng lại bị gả (làm vợ hai) cho chú ruột là Outey vào năm 1626. Ngoại tình với Chan Ponhéa Sô (Thommo Reachea II) và cả hai bị Outey giết vào năm 1631.
- Công chúa (Brhat Anga) Devi Panya. Được gả cho Padumaraja I (Ang Non - con trai của Outey, tức em họ của Devi Panya). Bị Ramathipadi I sát hại năm 1642 cùng với chồng, cha chồng. Bà và Padumaraja I có một người con trai là Padumaraja II (hoặc tên khác là Chey Chettha III).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
****Chey** Chettha II** hay **Chay Chettha II** (1573 hoặc 1577 -1627) là vua Chân Lạp giai đoạn 1618-1627. Tên húy là Ponhea Nhom (tiếng Khmer: ជ័យជេដ្ឋាទី២). ## Tiểu sử Ponhea Nhom là con trai cả
**Chey Chettha III** (1639-1673) là vua Chân Lạp giai đoạn tháng 10 năm 1672- tháng 5 năm 1673. Tên vương triều là Padumaraja II. ## Tiểu sử Chey Chettha III là con trai của vua
**Chey Chettha IV** (tên húy là Ang Sor hoặc Ang Saur. Tiếng Việt gọi là Nặc Ông Thu, Nặc Thu, Ông Thu) (1656-1725) là quốc vương của Chân Lạp, nắm ngôi vua các giai đoạn
**Thommo Reachea II** (1602-1632) là vua Chân Lạp giai đoạn 1629-1632. Tên húy là Chan Ponhéa Sô hoặc Ponhea To (_Cau Bana Tu_). ## Tiểu sử Ponhea là người con trai lớn nhất của vua
**Keo Fa II** (Ang Chea, tiếng Việt: Nặc Ông Đài) (1652-1677) là vua Chân Lạp giai đoạn ngắn ngủi từ 1673 đến 1674. ## Tiểu sử Ang Chea (Nặc Ông Đài 匿螉苔) là người con
**Ang Nan** (tiếng Việt: Nặc Ông Nộn, Nặc Nộn 匿嫩) (1654-1691) là phó vương của Chân Lạp, hiệu là Padumaraja, làm vua Chân Lạp dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn từ năm 1682 đến
thumb|498x498px|Bản đồ Cao Miên và Nam Kỳ 1841-1889. **Ang Chan II** (1792-1834), tiếng Khmer: អង្គចន្ទទី៣, **Ang Chan**, còn được gọi là **Outey Reachea III**, hoặc **Udayaraja III**, là vua của Campuchia vào thời kỳ 1806-1834.
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Outey** (1577-1642) là nhiếp chính vương của Chân Lạp từ 1627 đến 1642_,_ có tước hiệu là _Udayaraja_ và _Paramaraja_. ## Tiểu sử Hoàng tử Outey (hoặc _Uday_, Préa Outey) là con út của vua
**Padumaraja I** (1615-1642) là vua Chân Lạp giai đoạn 1640-1642. Tên húy là Ang Non, hiệu khác là Batom Reachea IV, còn được gọi là Ang Nan I hoặc Ang Non I (Nặc Nộn đệ
**Campuchia** là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. ## Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù
**Ramathipadi I** (1614-1659) là vua Chân Lạp giai đoạn 1642-1658. Tên húy là Ponhea Chan (_Cau Bana Cand_). Phiên âm tiếng việt là Nặc Ông Chân. Tên gọi theo Hồi giáo là « _Ibrahim_ ».
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Ang Tong Reachea** (1602-1640) là vua Chân Lạp giai đoạn 1632-1640. Tên húy là Ponhea Nou. ## Tiểu sử Ponhea Nou là người con trai thứ hai của vua Chey Chettha II. Lên ngôi sau
**Barom Reachea IV** hoặc **Barom Reachea VII** (1548 – 1619), còn được gọi là **Srei Soriyopear** (cũng đánh vần là **Soryopor** hoặc **Soryapor**; ), là vị vua Campuchia cai trị từ năm 1603 đến 1618.
**Tiền Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Tỉnh được hình thành từ năm 1976 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Định Tường (vốn do chính
**Công nữ Ngọc Vạn** (公女玉萬), tương truyền, có họ tên đầy đủ là **Nguyễn Phúc Ngọc Vạn** (阮福玉萬) hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn, gọi tắt là **Ngọc Vạn**, sinh khoảng năm 1605, mất sau
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Barom Reachea V** hoặc **Barom Reachea VIII** (1628- tháng 12 năm 1672) là vua Chân Lạp giai đoạn 1658-1672. Tên húy là **Ang Sur**, sử Việt gọi ông là **Nặc Xô**. Tên vương triều là
**Outey I** (1672-1696) là vua Chân Lạp giai đoạn ngắn ngủi từ 1695 đến 1696. Tên húy là Ang Yong. Hiệu là "Udayaraja II" và "Narai Ramathipadi II". ## Tiểu sử Outey I vốn là
**Ang Em** (tiếng Việt: Nặc Ông Yêm 匿螉淹) (1672-1696) là vua Chân Lạp các giai đoạn 1700-1701, 1710-1722. Tên húy là Ang Em. Hiệu là "**Keo Fa III**" và "**Barom Ramadhipati**". ## Tiểu sử Ang
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Ang Eng** (tiếng Khmer: អង្គអេង; tiếng Việt: Nặc Ấn (匿印) hoặc Nặc In; 1772 – 08/11/1796) là vua Chân Lạp từ năm 1779 đến khi mất năm 1796. Xưng hiệu là Noreay