Vũ Văn Uyên (Chữ Hán: 武文淵) (1479 - 1557), tước Khánh Dương Hầu, là người khai quốc cho sự nghiệp của các Chúa Vũ cát cứ 172 năm, ông đóng góp rất nhiều công sức chống Mạc nên được Nhà Lê cho cai quản đất Tuyên Quang, mở đầu cho cơ nghiệp này..
Thân thế
Vũ Văn Uyên quê ở làng Ba Động, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay. Ông vốn là một võ sĩ gan dạ, cường tráng. Do mang trọng tội, ông phải lánh nạn lên Tuyên Quang.
Bấy giờ tù trưởng ở Đại Đồng không được lòng dân, dân oán thán khiến tình hình rất lộn xộn. Là người giỏi võ nghệ, Vũ Văn Uyên giúp đỡ người dân chống cường hào, dần dần được nhiều người đi theo, Vũ Văn Uyên đánh bại và tiêu diệt tù trưởng, làm yên lòng dân, làm chủ cả một vùng rộng lớn gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Tuyên Quang ngày nay.
Lúc này tại triều đình rất rối ren, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân làm phản. Vua Lê Chiêu Tông ở thế suy yếu, muốn có thêm thế lực ủng hộ mình, nên phong cho Vũ Văn Uyên làm Khánh Bá Hầu.
Vũ Văn Uyên chọn vùng đất Nặm Ràng (tức Phố Ràng, tỉnh Lào Cai ngày nay) là nơi quy tụ các đầu mối giao thông để xây dựng căn cứ. Năm 1527 Vũ Văn Uyên huy động người dân trong vùng xây thành Nghị Lang (còn gọi là thành Bầu hay phủ Bầu), thành được xây trên đỉnh đồi Tấp giữa thung lũng Phố Ràng.
Đến năm 1533 thì thành được xây dựng xong, biến nơi đây trở thành căn cứ kinh tế, quân sự vững chắc lúc bấy giờ.
Trong thành có lầu chỉ huy, có xưởng rèn vũ khí, có xưởng đúc tiền, có trại lính, có khu gia binh, trường học, ...
Ngoài thành Nghị Lang, Vũ Văn Uyên cho xây dựng một số thành khác như thành Trung Đô (Bảo Nhai – Bắc Hà ngày nay), thành Bảo Hà, thành Nghĩa Đô, ... tạo thành một hệ thống phòng thủ vững chắc.
Phù Lê diệt Mạc
phải|Đại Việt quốc tổng lãm đồ (大越國總覽圖) thời nhà Lê-Trịnh, tập trung mô tả vùng Tuyên Quang-An Tây thừa tuyên (宣光-安西丞揎) do Vũ Văn Uyên (武文淵) cai quản.
Trong khi Vũ Văn Uyên xây dựng được một một "vương quốc riêng" để người dân yên vui an cư lạc nghiệp, thì tại triều đình, các phe phái vẫn tranh đoạt quyền lực. Năm 1527, thái phó Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê, lập ra nhà Mạc, bắt đầu chiêu mộ nhân tài. Dù vậy, Uyên vẫn giữ vững miền Tuyên Quang, cát cứ một phương, không chịu thần phục nhà Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim lập Lê Trang Tông lên ngôi ở Sầm Châu, khôi phục cơ nghiệp cho họ Lê. Uyên đem quân đến giúp trên danh nghĩa phù Lê, diệt Mạc, vua phong cho ông làm Gia quốc công, hẹn cùng nhau tiêu diệt nhà Mạc.
Sau khi liên hệ với Nguyễn Kim, Văn Uyên chủ động cử binh tiến đánh quân Mạc. Cuộc giao tranh giữa quân nhà Mạc, do Mạc Phúc Hải cầm quân, với Vũ Văn Uyên diễn ra kịch liệt vào năm 1533 khi họ Mạc tiếm ngôi được 6 năm. Lúc bấy giờ quân Mạc huy động lực lượng lớn nhằm dẹp tan quân của Vũ Văn Uyên. Sau vài trận giao chiến, quân của Văn Uyên thua bèn rút về tự thủ ở Đại Đồng. Quân Mạc thừa thắng, tiếp tục cử đại binh ngược sông Hồng tiến đánh Văn Uyên. Thấy sức mình chưa đủ để đánh bại quân Mạc, rất có thể Văn Uyên sử dụng chiến thuật "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" đã cho lui quân. Quân Mạc thừa thế, vượt qua Đại Đồng, tiến đến miền Văn Bàn, Thủy Vĩ. Văn Uyên đợi khi quân Mạc rút lui, quan quân lại trở về Đại Đồng tiếp tục xây dựng lực lượng. Quân nhà Mạc muốn dẹp tan thế lực họ Vũ ở đây, tướng Mạc do Mạc Phúc Hải chỉ huy đã tổ chức mấy vạn quân tấn công tiến đánh Vũ Văn Uyên trận nữa. Nhưng, sau những chuẩn bị tích cực và thực hiện chiến thuật "bất ngờ", Văn Uyên đã nhử quân Mạc vào ổ phục kích, khiến quân Mạc bị đánh tan. Sau thất bại này, nhà Mạc đành phải để cho họ Vũ cát cứ vùng này.
Năm 1551, được sự tín nhiệm của vua Lê Trung Tông,ông cùng em là Vũ Văn Mật phối hợp với lão tướng Lê Bá Ly tiến đánh Thăng Long. Uyên và Mật chiếm được 2 phủ Tam Đái và Bắc Hà.
Năm 1557, Lê Anh Tông lên ngôi, thái sư Trịnh Kiểm cất quân đánh Mạc, theo đường Thiên Quan ra Hưng Hóa, tới Tuyên Quang. Vũ Văn Uyên ra đón. Trịnh Kiểm rất mừng, cho ông trấn giữ Đại Đồng. Vì có nhiều công giúp vua Lê, ông được ban quyền thế tập trấn giữ Tuyên Quang. Cũng trong năm đó, Vũ Văn Uyên chết không có con nối dõi, em là Vũ Văn Mật nối quyền, xưng là Gia Quốc Công.
Công lao
Trên cơ sở làm chủ một vùng đất đai rộng lớn, cộng với uy danh của mình, nhất là mục đích của các chúa là diệt Mạc - phù Lê, họ Vũ được dân địa phương hết lòng ủng hộ. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, mục đích ấy là chính nghĩa nên càng được nhân dân các nơi ở miền xuôi theo về giúp sức, không chỉ tạo nên sự lớn mạnh về quân đội, mà còn tăng cường lực lượng lao động cho vùng Đại Đồng, tạo nên trên vùng đất này cảnh trù phú, ấm no, giúp nhà Lê về lương thực và binh lính trong công cuộc trung hưng. Sức mạnh về quân sự, về kinh tế mà các chúa Bầu cùng nhân dân tạo dựng được ở Tuyên Quang, đã là điều kiện quan trọng để các chúa và con cháu chúa giữ vững miền biên giới phía Tây của đất nước.
Công lao của các chúa Bầu đã được các sử gia hết lời ca ngợi, Lê Quý Đôn viết: " Vũ Văn Uyên là viên tuớng nơi biên giới, giữ trọn vẹn được Tuyên Quang, ... đem nghĩa lớn cương thường thanh minh với thiên hạ, dùng hình thế hiểm trở khống chế miền Thượng du, làm cho ngụy Mạc không thể dốc toàn lực để nhòm ngó miền Nam được, giữ vững phên dậu mặt Tây, truyền cho con cháu đời đời giữ khí tiết bầy tôi, nộp lương cấp lính, giúp vào công nghiệp Trung hưng, so với Trương Thực nhà Tấn, Lý Khắc Dụng nhà Đường, sự nghiệp lại có phần rạng rỡ hơn, cũng có thể gọi là người đại trung vậy". Sử nhà Nguyễn nhận xét, đánh giá cao vai trò của Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật: "Uy thế nhà Lê nổi là nhờ sức Văn Uyên. Không được bao lâu thì chết em là Văn Mật lên thay. Mật giúp nhà Lê chống nhà Mạc, nhân dân trong cõi được yên, vì có công được phong tước Gia quốc công, cho con cháu được thế tập giữ chức Trấn thủ Tuyên Quang. Năm Gia Long thứ nhất, Mật được liệt vào hàng công thần trung hưng nhà Lê bực thứ nhì".
Tưởng nhớ công lao của Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật ở vùng Đại Đồng, trấn Tuyên Quang xưa, tỉnh Lào Cai nay, nhân dân đã lập đền thờ gọi là đền Gia Quốc công. Đến thời Nguyễn, vào năm Tự Đức thứ 7, nhà vua đã có sắc phong cho các chúa Bầu, gia tặng là Cường trung tuấn mại chi thân.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vũ Văn Uyên** (Chữ Hán: 武文淵) (1479 - 1557), tước **Khánh Dương Hầu**, là người khai quốc cho sự nghiệp của các Chúa Vũ cát cứ 172 năm, ông đóng góp rất nhiều công sức
**Vũ Văn Dũng** hay **Võ Văn Dũng** (chữ Hán: 武文勇) (1750 - 1802), là một danh tướng của nhà Tây Sơn, đứng đầu trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông là người được vua Quang
**Vũ Văn Mật** (; 1493-1571) là em của Vũ Văn Uyên, vị chúa Bầu thứ hai của họ Vũ ở Tuyên Quang. ## Nối nghiệp huynh trưởng Sau khi nối quyền của anh là Vũ
**Vũ Văn Thành Đô** () là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết dã sử Thuyết Đường thời nhà Thanh. Trong tiểu thuyết này, ông được xếp thứ 2 trong số 18 hảo hán
**Vũ Văn Sĩ Cập** (tiếng Trung: 宇文士及, bính âm: Yǔwén Shìjí) (? - 11 tháng 11 năm 642), tự **Nhân Nhân** (仁人), thụy hiệu **Dĩnh Túng Công** (郢縱公), là người Trường An, Ung Châu. Ông
**Chu Văn Uyển** là một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Chu Văn Uyển tham gia nghĩa quân Tây Sơn, ban đầu ông giữ chức Đô
**Vũ Văn Mẫu** (1914 – 1998) là học giả lớn về Luật Việt Nam, chính trị gia nổi tiếng trước năm 1975 ở Sài Gòn. Ông từng là Thượng Nghị sĩ trong Liên danh Hoa
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Vũ Văn Hóa Cập** (, ? - 619) là một tướng lĩnh của triều Tùy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 618, ông đã lãnh đạo một cuộc binh biến chống lại và giết chết
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Vũ Văn Trí Cập** (宇文智及, bính âm: Yǔwén Zhìjí) là một quan lại Trung Quốc thời nhà Tùy. Ông là con của Hứa quốc công Vũ Văn Thuật. Ông có hai người anh em là
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
Một góc tranh "Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ", Tranh mô tả Trần Nhân Tông từ hành cung Vũ Lâm xuất du Phong cảnh vùng núi hành cung Vũ Lâm **Hành cung Vũ Lâm**
**Bà chúa Bầu họ Vũ**, tên thật là **Vũ Thị Ngọc Anh** (hay **On**) là một nữ tướng và là một thần linh Việt Nam. Tương truyền bà là con gái của Chúa Bầu Vũ
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Văn Lãng** là một huyện biên giới thuộc tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Văn Lãng nằm ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện
**Vu Cẩn** (chữ Hán: 于谨, 493 – 568), tự **Tư Kính**, tên lúc nhỏ là **Cự Di**, dân tộc Tiên Ti, người Lạc Dương, Hà Nam (nay là Lạc Dương, Hà Nam), tướng lĩnh nhà
**Lưu Uyên** () (mất 310), tên tự **Nguyên Hải** (元海), được biết đến với thụy hiệu **Hán (Triệu) Quang Văn Đế** (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung
**Huỳnh Văn Nghệ** (1914-1977) là một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy quân sự Việt Nam, nổi tiếng về tài thi ca, có những câu thơ được nhiều người truyền tụng.
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Tiêu Vũ** (574–647) chữ Hán - 蕭瑀, tên tự **Thời Văn** (時文), ông được phong Tống Quốc Công, là một hoàng tử của triều đại Tây Lương, người sau này trở thành một quan chức
**Vũ Cát Tường** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Tường được biết đến với khả năng kết
**Trận Sa Uyển** (chữ Hán: 沙苑之战, _Sa Uyển chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào tháng 10 năm 537, giữa hai nước Đông Ngụy và Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Hầu Uyên** (, ? - ?), người Tiêm Sơn, Thần Vũ , tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy. Do Bắc sử được soạn vào đời Đường, Lý Duyên Thọ phải kỵ húy Đường Cao Tổ Lý
**Đa Minh Đặng Văn Cầu** (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1962) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận chức vụ giám mục chính tòa Giáo phận Thái Bình.
**Lưu Quang Vũ** (17 tháng 4 năm 1948 – 29 tháng 8 năm 1988) là một cố nhà văn, nhà soạn kịch kiêm nhà thơ người Việt Nam. ## Tiểu sử và sự nghiệp Lưu
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Đinh Văn Chất** (chữ Hán: 丁文質; 1843–1887), tự **Giả Phu**, hiệu **Trực Hiên**, là một nhà khoa bảng, quan lại nhà Nguyễn và một sĩ phu kháng Pháp dưới triều vua Tự Đức trong lịch
nhỏ|Tượng thần [[Khẩn Na La huyền thoại tại chùa Phra Kaew (chùa Phật Ngọc), Băng Cốc]] **Văn hóa Thái Lan** là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa
**_Uyên ương_** (tiếng Trung: 鴛鴦, thường được phiên âm theo cách phát âm tiếng Quảng Đông là _yuenyeung_, _yinyeung_, hoặc _yinyong_),_ yuanyang_ (trong tiếng Quan Thoại) là loại thức uống rất phổ biến ở Hồng
**Uyên ương** (danh pháp hai phần: **_Aix galericulata_**) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ. ## Đặc điểm và
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
nhỏ|phải|Chân dung Hoàng Văn Thụ tại [[Nhà tù Hỏa Lò|Hỏa Lò, Hà Nội]] **Hoàng Văn Thụ** (tên khai sinh **Hoàng Ngọc Thụ**, 1906–1944) là nhà lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng Cộng sản
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2022** là cuộc thi tìm kiếm Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam lần thứ 5, được tổ chức vào tối ngày 25 tháng 6 năm 2022 tại Trung tâm
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
phải|nhỏ|219x219px|Bên trong hành lang giữa Văn Hoa điện và Chủ Kính điện **Văn Hoa điện** (_tiếng Trung_: 文华殿; bính âm: Wén Huá Diàn) được xây dựng từ thời Minh sơ, ở phía Đông của Hiệp
nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi
Các cuộc thảm sát và bất ổn dân sự ở Indonesia từ năm 1965 đến 1966 nhằm vào các thành viên và những người ủng hộ Đảng Cộng sản Indonesia (PKI), cũng như các nhóm
**Vũ Trinh** (**武楨**, 1759 - 1828) (楨 Trinh nghĩa là trụ cột, cơ sở; 國之楨榦 "Quốc chi trinh cán": người làm căn bản cho nhà nước), tự Duy Chu (**維周**) hiệu Huệ Văn tiên sinh,
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Vụ sai phạm tại Tập đoàn Thuận An** là vụ sai phạm liên quan đến đấu thầu, tham nhũng diễn ra xung quanh Tập đoàn Thuận An do ông Nguyễn Duy Hưng sáng lập và
**Nguyễn Văn Vũ** (28 tháng 7 năm 1972 – 1 tháng 4 năm 2019), thường được biết đến với nghệ danh **Anh Vũ** là một diễn viên hài, diễn viên kịch và diễn viên điện
**Lê Văn Thanh** (黎文清) là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Lê Văn Thanh tham gia phong trào Tây Sơn khi nào không rõ, nhưng ông là tướng lĩnh cao cấp
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Vũ Thành An** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1943) là một trong những nhạc sĩ nổi bật của miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975. Các "Bài không tên" là những tác
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh