✨Tịch Thiên

Tịch Thiên

Tịch Thiên (zh. 寂天, sa. śāntideva, bo. zhi ba lha ཞི་བ་ལྷ་), là một luận sư Phật giáo kiêm thi hào Ấn Độ sống vào khoảng thế kỉ thứ 7-8 Công nguyên. Ông là người theo phái Trung quán của đạo Phật Đại thừa do Long Thọ Bồ Tát chủ xướng.

Cơ duyên & tư tưởng chủ đạo

Các nguồn tài liệu về cuộc đời Tịch Thiên được ghi rõ và đối chiếu trong chuyên luận của A. Pezzali. Nhìn chung thì chúng phần lớn mang tính chất thần thoại, chứa rất ít những gì cụ thể lịch sử. Tuy nhiên, các học giả đều nhất trí về việc Sư là vương tử (có lẽ con vua xứ Surāṣṭra), từ khước ngai vàng, đến học viện Na-lan-đà (hoặc Madhyadeśa) gia nhập Tăng-già. Thần thể (sa. iṣṭadevatā) trong quá trình tu tập của Sư là Văn-thù-sư-lợi (sa. mañjuśrī) và Đà-la (sa. tārā).

Về thời hoằng pháp của Tịch Thiên ta cũng không thấy sự nhất trí trong giới nghiên cứu. Phần lớn các chuyên gia nương vào tên của những vương triều thời đó được ghi lại qua sử sách Tây Tạng để xác định, với kết quả là Sư sống vào khoảng 650-700 sau CN. A. Pezzali cho rằng sư hoằng pháp sau thời gian nêu trên với dẫn chứng là Nghĩa Tịnh (rời Ấn Độ 695) — nếu lúc đó Tịch Thiên đã nổi danh như sử sách ghi lại — đã phải ghi lại một vài thông tin về sư. Tuy nhiên, thầy của Tịch Thiên là Thắng Thiên (sa. jayadeva) cũng không được Nghĩa Tịnh nhắc đến trong ký sự của mình. Thời điểm cuối ta có thể xác định được là chuyến đi Tây Tạng đầu tiên của Tịch Hộ (zh. 寂護, sa. śāntirakṣita) vào năm 763, bởi vì Tịch Hộ trích dẫn Tịch Thiên trong tác phẩm Thành chân thật luận (sa. tattvasiddhi).

Tịch Thiên chủ trương học thuyết Quy mậu luận chứng (zh. 歸謬論証, sa. prasaṅga) — cũng được gọi là Cụ duyên hoặc Ứng thành — của tông Trung quán (sa. mādhyamika). Tương truyền thầy của Sư là Thắng Thiên, một đại sư giảng dạy tại học viện Na-lan-đà. Ngoài Sư ra thì Thắng Thiên có một đệ tử khác là Virūpa. Về tư tưởng thì Sư thuộc về hàng hậu thế trong tông Trung quán và chính vì vậy mà có thể dùng tất cả những phương tiện mà các vị tiền bối đã phát triển. Về quan điểm triết học thì Sư lại gần Nguyệt Xứng. Trong khi vị này được miêu tả như một triết gia thuần tuý thì Tịch Thiên lại có khuynh hướng phối hợp quan điểm triết học và thực hành thiền định một cách hài hoà. Vì truyền thống Trung quán không lưu lại tài liệu hướng dẫn thực hành cụ thể nên Sư phải diễn dẫn quan điểm của những trường phái khác, những quan điểm được trình bày trong các bộ kinh Hoa Nghiêm, Bảo Tích hoặc những bài kinh Đại thừa độc lập khác. Và Sư cũng chẳng ngần ngại trích dẫn kinh điển "tiền đại thừa", diễn giảng chúng theo cách của mình, theo quan điểm Đại thừa.

Tác phẩm

Sư là tác giả của hai tác phẩm quan trọng là (Đại thừa) Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) và Nhập bồ-đề hành luận (sa. bodhicaryāvatāra). Một tác phẩm thứ ba cũng thường được nhắc đến là Tập kinh luận (sa. sūtrasamuccaya) đã thất truyền (theo Thánh Nghiêm thì được dịch ra Hán ngữ dưới tên Đại thừa thật yếu nghĩa luận). Nhập bồ-đề hành luận rất thông dụng trong Phật giáo Tây Tạng, là kinh điển giáo khoa.

Nhập bồ-đề hành luận

Nhập bồ-đề hành luận trình bày các bước tu học vị Bồ Tát, từ lúc phát Bồ-đề tâm (sa. bodhicitta) cho đến lúc đạt trí Bát-nhã (sa. prajñā), dựa trên Lục ba-la-mật-đa (sa. ṣaṭpāramitā). Nhập bồ-đề hành luận là tác phẩm nhằm hướng dẫn cho Cư sĩ hay người mới nhập môn. Tịch Thiên giảng giải trong tác phẩm này hai phương pháp nhằm giúp vị Bồ Tát tương lai nhận biết tại sao mình lại cứu độ cho người và xuất phát từ đó các hành động cần thiết. Một mặt hành giả phải tu học phép quán chiếu cái nhất thể giữa mình và người (sa. parātmasamatā), mặt khác phải học phép hoán đổi giữa mình và người (sa. parātmaparivartana, xem thêm Bất hại), tức là đặt mình vào địa vị của chúng sinh để thấu rõ tâm trạng của Hữu tình (sa. sattva).

Tập Bồ Tát học luận

Tập Bồ Tát học luận bao gồm 19 chương (sa. pariccheda) với 27 bài kệ chính và lời bình giảng, giải thích rõ những câu kệ này. Phần bình giảng hàm chứa nhiều đoạn trích dẫn kinh điển — Tịch Thiên trích dẫn trên 100 bộ kinh. Phần đóng góp của Sư trong đây nằm trong phạm vi tóm lược và viết lời dẫn dưới dạng văn xuôi. Trọng tâm của Tập Bồ Tát học luận là con đường tu tập của một vị Bồ Tát. Mặc dù Sư theo cách phân chia truyền thống theo sáu Ba-la-mật-đa (sa. pāramitā) nhưng lại không dùng chúng làm sườn một cách xuyên suốt trong tác phẩm này. Thay vào đó, Sư viết rõ hơn về điều kiện dẫn nhập và những chặng đường phát triển "bên dưới", kể từ lúc ban sơ, từ lúc một Phật tử phát tâm Bồ-đề vì lợi ích chúng sinh. Quan trọng cho cấu trúc của Tập Bồ Tát học luận, ngoài Lục ba-la-mật-đa ra là những quỹ phạm khác, ví như ba điểm quan trọng là bản thân (sa. ātmabhāva), vật sở hữu (sa. bhoga) và Công đức (sa. puṇya) của một Bồ Tát. Ba điểm này được giảng thuật dưới bốn khía cạnh, đó là: sự buông xả (sa. utsarga), bảo hộ (sa. rakṣā), thanh tịnh (sa. śuddhi) và tăng trưởng (sa. vṛddhi).

Điểm đặc biệt của Tập Bồ Tát học luận nằm ở chỗ không nhấn mạnh đến khía cạnh triết học Phật giáo, mặc dù cơ sở quan trọng này không bao giờ bị xao lãng. Thay vào đó, luận văn chuyên chú đến khía cạnh tu tập cụ thể mà mỗi Phật tử có thể thực hành. Tất cả những chủ đề được đưa ra và bình luận đều hướng về mục đích cứu cánh, đó là thành tựu quả vị Bồ Tát, đạt giác ngộ vì lợi ích chúng sinh. Nhìn chung, tác phẩm được viết một cách giản dị, tha thiết và đầy thi vị. Tập Bồ Tát học luậnNhập Bồ-đề hành luận sau này trở thành sách giáo khoa căn bản của Phật giáo Tây Tạng và đây cũng là lý do vì sao bộ Phiên dịch danh nghĩa đại tập (zh. 翻譯名義大集, sa. mahāvyutpatti) đặt Tịch Thiên ngang hàng những vị Đại luận sư khác như Long Thụ, Thánh Thiên, Nguyệt Xứng, Thanh Biện và Giác Hiền.

Tiểu sử bên dưới được ghi lại theo cách nhìn của Mật giáo Ấn Độ, Tây Tạng.

Tịch Thiên (41), "Kẻ lười biếng"

Tịch Thiên theo truyền thống 84 vị Đại thành tựu của Ấn Độ và cũng là người viết Nhập bồ-đề hành luận. Sư là một vương tử được thụ giới Tỳ Kheo tại Đại học Phật giáo Na-lan-đà. Trong lúc các bạn đồng học tập trung học tập thì Sư chỉ thích ngủ nghỉ, vì thế bạn bè khinh khi, đặt tên là "lười biếng" (sa. bhusuku), có nghĩa người chỉ biết thực hiện ba việc: ăn, ngủ và bài tiết. Thời đó tại Na-lan-đà, các học viên thường phải đọc thuộc lòng Kinh điển trước đại chúng, lần đó đến lượt Tịch Thiên. Vị giáo thụ xem chừng Sư không thuộc bài, khuyên Sư nên ra khỏi Tăng-già, nhưng Sư không chịu. Tới ngày phải tụng đọc, Sư thành tâm cầu khẩn Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi giúp đỡ, quả nhiên Văn-thù hiện ra hứa giúp. Lúc Sư lên giảng đường tụng đọc, mọi người tề tựu đông đủ, kể cả nhà vua Thiên Hộ (sa. devapāla), ai cũng nghĩ Sư sẽ bị một vố ê chề. Thế nhưng Sư đọc một bài kinh hoàn toàn mới, gồm có 10 chương, đó là tập Nhập bồ-đề hành luận (sa. bodhicāryāvatāra) vô song, còn truyền đến ngày nay. Đến chương thứ chín thì người Sư lơ lửng trên không, mọi người đều ngạc nhiên kinh hoàng. Sau đó không ai gọi Sư là "lười biếng" nữa mà đặt tên là "Pháp sư" Tịch Thiên, mời Sư làm Viện trưởng của Na-lan-đà.

Sau đó Sư rời Na-lan-đà ra đi không lời từ giã, lấy một thanh gỗ biến thành gươm và đi làm kiếm sĩ cho nhà vua xứ Đô-ri-ki (sa. dhokiri). Sau, Sư vào rừng ẩn cư và làm thợ săn. Bị nhiều người chê trách là đã tu mà còn giết hại sinh vật, Sư dùng thần thông làm chúng sống lại cả và bảo: :Con nai trên bàn ăn, :chưa hề sống, hề chết, :chẳng bao giờ vắng bóng. :Đã không gì là Ngã, :sao lại có thợ săn :hay thịt của thú rừng? :Ôi, người đời đáng thương, :mà các ngươi lại gọi, :ta là người "lười biếng"! Sư sống trên trăm năm và đưa nhiều người trở về chính pháp. Phật giáo Tây Tạng rất coi trọng Tịch Thiên, bộ Nhập bồ-đề hành luận là sách giáo khoa tại đó. Chứng đạo ca của Sư có những lời sau: :Trước ngày thật chứng ngộ, :ta biết nhiều hương vị, :trong khắp cõi luân hồi, :ta xa lánh đức Phật. :Tới lúc thật chứng rồi, :Sinh tử và Niết-bàn :hợp nhất thành Đại lạc, :ta trở thành viên ngọc :sáng trong biển vô tận.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tịch Thiên** (zh. 寂天, sa. _śāntideva_, bo. _zhi ba lha_ ཞི་བ་ལྷ་), là một luận sư Phật giáo kiêm thi hào Ấn Độ sống vào khoảng thế kỉ thứ 7-8 Công nguyên. Ông là người theo
**Thiền phái Trúc Lâm ** (zh. 竹林禪派) là một tông phái của Thiền tông Việt Nam, hình thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của
Khách thập phương lên núi Yên Tử ** Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc** là một chuỗi các di tích nằm trên địa bàn
**Ngưỡng Sơn Huệ Tịch** (zh. _yǎngshān huìjì_ 仰山慧寂, ja. _kyōzan ejaku_), 807-883, là Thiền sư Trung Quốc, môn đệ lừng danh của Quy Sơn Linh Hựu và là người cùng thầy khai sáng tông Quy
**Tào Sơn Bản Tịch** (zh. _cáoshān běnjì_ 曹山本寂, ja. _sōzan honjaku_), 840-901, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ đắc pháp của Động Sơn Lương Giới và cùng với thầy, sư thành lập tông
**Thiền sư** (zh: 禪師; ; ja: _zenji_, kr: _sonsa_, en: _zen master_) là các vị tì-kheo thông suốt về toạ thiền. Vào thời Phật còn tại thế, các vị A-la-hán đều là những người thông
thumb|right|250 px|[[NGC 3169|Thiên hà NGC 3169 _(trái)_ và thiên hà NGC 3166 _(phải)_ đang quay quanh gần nhau, đủ gần để trường hấp dẫn gây va chạm giữa hai thiên hà. Quan sát tại Đài
[[Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư]] Điện Tam Thế ở [[Chùa Bái Đính]] [[Đền Trần (Nam Định)|Đền Trần ở Nam Định]] [[Chùa Địch Lộng ở Gia Viễn]] [[Đền Trần Thương ở Hà Nam]]
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Bí tích Hòa Giải** (còn gọi là **Bí tích Hoán Cải** hay **Sám Hối**, **Xưng Tội**, **Tha Tội**, **Giải Tội**, **Bí tích của sự hối cải**, **Bí tích Thống Hối**, **Bí tích Xưng tội**, **Bí
**Nguyễn Thiện Nhân** (sinh năm 1953) tại xã Phương Trà, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh là chính trị gia, Giáo sư kinh tế và Tiến sĩ chuyên ngành Tự động hóa. Ông hiện là
**Thiện nhượng** (_chữ Hán_: 禪讓) có nghĩa là _nhường lại ngôi vị_, được ghép bởi các cụm từ **Thiện vị** và **Nhượng vị**, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều
**Võ Tắc Thiên** (chữ Hán: 武則天, 624 - 16 tháng 12, 705) hay **Vũ Tắc Thiên**, thường gọi **Võ hậu** (武后) hoặc **Thiên hậu** (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái
**Bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới** (tiếng Anh: New 7 Wonders of Nature) là một cuộc bình chọn do công ty tư nhân New Open World (NOW) Corporation, đặt trụ sở tại Thụy
nhỏ|Một dàn khoan **khí thiên nhiên** ở [[Texas, Hoa Kỳ.]] **Khí thiên nhiên** (còn gọi là **khí gas, khí ga, khí đốt** - từ chữ _gaz_ trong tiếng Pháp) là hỗn hợp chất khí cháy
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
Di tích quốc gia đặc biệt đền Hùng ở Phú Thọ Di tích văn hóa [[Miếu Bà Chúa Xứ ở An Giang]] Thánh địa [[Mỹ Sơn]] Di tích kiến trúc nghệ thuật [[nhà thờ đá
Ỷ Thiên Đồ Long ký là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, trong truyện có
**Phan Bích Thiện** (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1968) là một doanh nhân, nhà hoạt động xã hội người Việt Nam, hiện đang sống tại Hungary. Bà tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại
**Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử** gồm hệ thống các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh nằm ở sườn Tây và Bắc của dãy núi Yên Tử, thuộc
**Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn**, ở Trung Quốc được gọi là **Sự cố ngày 4 tháng 6** (), là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Phước Tích** thuộc tổ dân phố Phước Phú, phường Phong Hòa, thị xã Phong Điền, thành phố Huế, Việt Nam. Phước Tích được nhà nước công nhận và trao bằng xếp hạng _"Di tích quốc
**Động Thiên Tôn** là một động ở phường Ninh Mỹ, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Động ở chân _núi Voi_, cách _ngã ba Thiên Tôn_ trên Quốc lộ 1 cỡ gần
**Thiền uyển tập anh** (chữ Hán: 禪苑集英), còn gọi là **Thiền uyển tập anh ngữ lục** (禪苑集英語錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục** (大南禪宛傳燈集錄), **Đại Nam thiền uyển truyền đăng** (大南禪宛傳燈), **Thiền uyển
Trưởng lão Hòa thượng **Thích Chơn Thiện** () là hoà thượng của Phật giáo tại Việt Nam. Hòa thượng từng giữ cương vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt
**Quản lý tài nguyên thiên nhiên** là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất,nước, thực vật, động vật và tập trung chủ yếu về các tác động đến chất lượng cuộc sống
phải|Cổng Nhân Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An phải|Cổng Địa Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An phải|Cổng Thiên Môn - Đàn Kính Thiên Tràng An **Đàn Kính Thiên Tràng An** là công trình
nhỏ|270x270px|_[[Bức trang trí Bảy Bí Tích|Bảy Bí Tích_, một bức tranh bởi Rogier van der Weyden, ]] **Hội Thánh Công giáo có bảy bí tích**, mà theo thần học Công giáo thì các bí tích
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân** (Tiếng Trung Quốc: **天津市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Tiān Jīn shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán – Việt: _Thiên Tân thị Nhân dân Chính
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê
Trong tài chính, **phân tích kỹ thuật** là một phương pháp phân tích chứng khoán dự báo hướng của giá cả thông qua việc nghiên cứu các dữ liệu thị trường quá khứ, chủ yếu
thumb|Đền Kiếp Bạc, phường Chí Linh, thành phố Hải Phòng **Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc** là một di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Quần thể di tích
**Bí tích Thánh Thể**, còn gọi là **Bí tích Cực Thánh** hay **Bí tích Mình Thánh Chúa**, là một trong bảy Bí tích của Kitô giáo, được cử hành trong phần Phụng vụ Thánh Thể
**Lam Thiên Lập** (tiếng Trung: 蓝天立, bính âm: _Lán Tiān Lì_, tiếng Latinh: _Lan Tianli_, sinh tháng 10 năm 1962, người Tráng) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là
**G1.9+0.3** là tàn tích siêu tân tinh trẻ nhất được biết đến nằm trong dải Ngân hà. Tàn tích này được phát hiện qua kết hợp dữ liệu từ sự quan sát của hai kính
**Vô Tích** (tiếng Hoa: 无锡市) là một thành phố trực thuộc tỉnh của tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là một thành phố lớn với số lượng dân đông, nền kinh
**Chùa Hồ Thiên** (tên chữ: _Trù Phong Tự_) nằm ở sườn núi Phật Sơn thuộc dãy núi Yên Tử thuộc địa phận phường Bình Khê, thành phố Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chùa Hồ Thiên
**Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu** là một khu bảo tồn thiên nhiên nằm tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. Nơi đây ghi nhận được
**Phạm Thiện Nghĩa** (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1966) là một chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Trong
thumb|[[Thiên hà Chong Chóng, một thiên hà xoắn ốc điển hình trong chòm sao Đại Hùng, có đường kính khoảng 170.000 năm ánh sáng và cách Trái Đất xấp xỉ 27 triệu năm ánh sáng.]]
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
Đền Vua Đinh ở Nam Định Vùng đất Nam Định từ thế kỷ X vốn là đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm gần kinh đô Hoa Lư, (Ninh Bình) xưa, nơi Vua Đinh Tiên
Cổng vào phủ Vườn Thiên ở [[cố đô Hoa Lư]] **Phủ Vườn Thiên** _(còn gọi là đền thờ hoàng tử Lê Long Thâu hay phủ Kình Thiên Vương)_ là di tích lịch sử văn hóa
**Phân tích tính toán** (Analytics) là phân tích tính toán có hệ thống của dữ liệu hoặc thống kê. Đây là quá trình phát hiện, giải thích và truyền đạt các mô hình có ý
**Phân tích website (Website analytics)** là việc đo lường, thu thập, phân tích và báo cáo dữ liệu web nhằm mục đích hiểu và tối ưu hóa việc sử dụng web. Tuy nhiên, phân tích
**Đơn vị thiên văn** (ký hiệu: au) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi
**Quải tích** (zh. 掛錫, ja. _kashaku_) nghĩa là "treo tích trượng". Còn gọi là **Lưu tích** (zh. 留錫), **Quải đáp** (zh. 掛褡). Chỉ bước nhập môn của một thiền tăng sau một cuộc hành cước,