nhỏ|270x270px|[[Bức trang trí Bảy Bí Tích|Bảy Bí Tích, một bức tranh bởi Rogier van der Weyden, ]]
Hội Thánh Công giáo có bảy bí tích, mà theo thần học Công giáo thì các bí tích này được Chúa Giêsu Kitô thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh. Bí tích là các nghi thức và dấu chỉ khả giác mà qua đó, ân sủng của Thiên Chúa được thông ban cách hữu hiệu cho những ai lãnh nhận nó với thái độ sẵn sàng của một tâm hồn ngay thẳng.
Các bí tích thường được phân vào ba nhóm, đó là: các bí tích khai tâm Kitô giáo (gia nhập Hội Thánh Công giáo và nhiệm thể Chúa Kitô), bao gồm bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức và bí tích Thánh Thể; các bí tích chữa lành, bao gồm bí tích Thống Hối (Giải tội) và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân; và các bí tích phục vụ sự hiệp thông, bao gồm bí tích Truyền Chức Thánh và bí tích Hôn Phối. Bên cạnh đó, bí tích Rửa Tội và bí tích Thống Hối được coi là "các bí tích của kẻ chết" (theo nghĩa các linh hồn của những tội nhân đã qua đời trước nhan Thiên Chúa thì được sống lại qua các bí tích này), trong khi 5 bí tích còn lại thì được gọi chung là "các bí tích của kẻ sống".
Số lượng bí tích
nhỏ|Bảy bí tích của Hội Thánh Công giáo
Trong lịch sử
Số lượng các bí tích trong Hội Thánh Kitô giáo sơ khai thường khả biến và không được xác định cụ thể; chẳng hạn thánh Petrus Damianus từng liệt kê 11 bí tích, tựu trung có bí tích phong chức vua chúa. Nhà thần học Hugo de Sancto Victore thì liệt kê được gần 30 bí tích, mặc dù ông đặt hai bí tích Rửa Tội và Thánh Thể lên hàng đầu cách đặc biệt xác đáng. Bảy bí tích theo cách liệt kê hiện nay được trình bày trong bộ sách Các luận đề của nhà thần học Petrus Lombardus và được thông qua tại Công đồng Laterano IV vào năm 1215.
Cách liệt kê trên được ấn định bởi Công đồng Basilea (1439) và được tái khẳng định bởi Công đồng Tridentino (1545–1563) với nội dung như sau:
Phương diện tín lý
"Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành kho tàng thánh thiêng duy nhất lưu trữ Lời Chúa đã được ký thác cho Giáo Hội." "Phải lưu ý rằng trong phụng vụ, nhất là trong phụng vụ các bí tích, có một phần bất biến, vì do Chúa thiết lập, mà Hội Thánh là người canh giữ, và những phần có thể thay đổi, mà Hội Thánh có quyền, và đôi khi có bổn phận thích nghi với các nền văn hóa của các dân tộc mới đón nhận Tin Mừng." Thừa tác viên trao bí tích rửa tội không có quyền thay đổi công thức rửa tội sao cho việc rửa tội ấy không nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liên quan đến bí tích Thánh Thể: "Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ." Liên quan đến hôn nhân, "dựa trên Thánh Kinh, vốn xem các hành vi đồng tính luyến ái như những suy đồi nghiêm trọng, truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: 'Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự'. Chúng nghịch với luật tự nhiên." Liên quan đến việc truyền chức thánh: "Không thể có việc truyền chức cho các người nữ."
Hiệu năng của bí tích không lệ thuộc vào sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên. Hiệu năng của bí tích cũng không đến từ thừa tác viên trao bí tích hay từ người lãnh nhận, nhưng là từ Thiên Chúa. Trong và qua bí tích ấy, quyền năng của Đức Kitô và của Thần Khí Người hành động. Tuy nhiên, các hiệu quả thực sự (hoa trái) của các bí tích cũng tùy thuộc vào sự chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận: "để đạt được hiệu năng trọn vẹn, các tín hữu cần phải đến tham dự Phụng vụ thánh với thái độ sẵn sàng của một tâm hồn ngay thẳng, hòa hợp tâm trí với lời đọc bên ngoài, và cộng tác với ân sủng trên trời, để đừng nhận lãnh ơn Chúa cách vô ích."
Đức tin và ân sủng
nhỏ|Hội Thánh phân phát ân sủng thiêng liêng thông qua các bí tích. Ở chính giữa bức hình có hình tượng nhân cách hóa của Hội Thánh với tên gọi [[Ecclesia và Synagoga|Ecclesia, trên đầu đội triều thiên ba tầng; phía trên cùng là bí tích Rửa Tội, nơi ân sủng tuôn trào ra; ở bên phải là bí tích Hôn Phối, Thánh Thể, Thống Hối; ở bên trái là bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh, Thêm Sức (Johannes Hopffe, văn bia Wrisberg, Hildesheim, trước năm 1615)]]
Hội Thánh Công giáo dạy rằng, các bí tích là "những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Đức Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh; qua các bí tích, sự sống thần linh được trao ban cho chúng ta." Hội Thánh cũng khẳng định rằng các bí tích hữu hiệu "do sự" (), tức do chính hành động bí tích được thực hiện, và không lệ thuộc vào sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên trao bí tích ấy. Tuy nhiên, việc người nhận không có thái độ sẵn sàng của một tâm hồn ngay thẳng để đón nhận ân sủng có thể cản trở hiệu quả của bí tích nơi người đó. Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin, mà còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin bằng các lời đọc và nghi thức.
Trong khi Hội Thánh được coi là bí tích phổ quát của ơn cứu độ, thì các bí tích của Hội Thánh Công giáo, theo nghĩa hẹp là bảy bi tích, "liên quan đến tất cả các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Kitô hữu: chúng làm cho đời sống đức tin của các Kitô hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và được trao sứ vụ." "Hội Thánh khẳng định rằng, đối với tín hữu, các bí tích của Giao Ước Mới là cần thiết cho ơn cứu độ", mặc dù bất kỳ một cá nhân nào không nhất thiết phải lãnh nhận cả thảy bảy bí tích.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bí tích Hòa Giải** (còn gọi là **Bí tích Hoán Cải** hay **Sám Hối**, **Xưng Tội**, **Tha Tội**, **Giải Tội**, **Bí tích của sự hối cải**, **Bí tích Thống Hối**, **Bí tích Xưng tội**, **Bí
nhỏ|"Xức dầu sau hết", trích từ bức tranh trang trí [[Bảy Bí Tích (bức tranh)|Bảy Bí Tích (1445–1450) của Rogier van der Weyden.]] **Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân** (còn gọi là **Bí tích Xức
nhỏ|270x270px|_[[Bức trang trí Bảy Bí Tích|Bảy Bí Tích_, một bức tranh bởi Rogier van der Weyden, ]] **Hội Thánh Công giáo có bảy bí tích**, mà theo thần học Công giáo thì các bí tích
**Bí tích Thánh Thể**, còn gọi là **Bí tích Cực Thánh** hay **Bí tích Mình Thánh Chúa**, là một trong bảy Bí tích của Kitô giáo, được cử hành trong phần Phụng vụ Thánh Thể
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai**, gọi tắt là **Công đồng Vatican lần thứ hai** hay **Vatican II**, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Giáo hoàng Piô XI** (tiếng Latinh: **Pius XI**, tiếng Ý: **Pio XI**) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc
**Giáo hoàng Phanxicô** ( ; ; ; 17 tháng 12 năm 1936 – 21 tháng 4 năm 2025; tên thật là **Jorge Mario Bergoglio**) là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo
**Giáo hoàng Biển Đức XV** (tiếng Latinh: _Benedictus PP. XV_, tiếng Ý: _Benedetto XV_; 21 tháng 11 năm 1854 - 22 tháng 1 năm 1922) tên khai sinh: **Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa,** là
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Innôcentê III** (Latinh: **Innocens III**) là vị giáo hoàng thứ 176 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1198 và ở ngôi
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Giáo hoàng Lêô XIII** (Latinh: **Leo XIII**) là vị giáo hoàng thứ 256 của Giáo hội Công giáo Rôma. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc cử giáo hoàng của ông là
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Galileo_before_the_Holy_Office_-_Joseph-Nicolas_Robert-Fleury,_1847.png|nhỏ|Galileo trước Thánh bộ, tranh thế kỷ 19 của [[Joseph-Nicolas Robert-Fleury]] **Tòa thẩm giáo** (Latinh: _Inquisitio_) là hệ thống các tòa án mà các thẩm phán của Giáo hội Công giáo có thể khởi tố,
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Clêmentê VI** (Latinh: **Clemens VI**) là vị giáo hoàng thứ 198 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1342 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Bônifaciô VIII** (Tiếng La Tinh: **Bonifacius VIII**) là vị giáo hoàng thứ 193 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh Vatican năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Đại Hội 3 năm một lần, để đánh giá các hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong thời gian qua và bàn những việc
**Gioan XII** (Latinh: **Johnnes XII**) là vị giáo hoàng thứ 130 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Agapêtô II. Theo niên giám Tòa Thánh năm 2003 thì ông đắc
**Giáo hoàng Stêphanô I** (Latinh: **Stephanus I**) là Giám mục của Rôma và là vị giáo hoàng thứ 23 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo Niên giám Tòa Thánh năm 1806_ thì ông lên
**Điônisiô** (Latinh: **Dionysius**) là vị Giáo hoàng thứ 25 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông lên ngôi Giáo hoàng vào năm 259 và ở ngôi Giáo hoàng
**Giáo hoàng Urbanô I** (Tiếng La Tinh: _Urbanus I_) là người kế nhiệm giáo hoàng Callixtus I và là vị Giáo hoàng thứ 17 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh
**Sôtêrô** (Tiếng Latinh:_Soterus_) là vị Giáo hoàng thứ 11 kế vị Thánh Phêrô và là vị Giáo hoàng thứ 12 của giáo hội Công giáo. Ông được biết đến như là "giáo hoàng của tình
**Urbanô II** (Latinh: **Urbanus II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Victor III và là vị giáo hoàng thứ 159 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Clêmentê XIII** (Latinh: **Clemens XIII**) là vị giáo hoàng thứ 248 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1758 và ở ngôi Giáo
**Giuliô III** (Latinh: **Jules III**) là vị giáo hoàng thứ 221 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1550 và ở ngôi Giáo
**Miltiadê** (Latinh: **Miltiades** hay **Malchiadus**) (Μελχιάδης ὁἈφρικανός trong tiếng Hy Lạp), là người kế nhiệm Giáo hoàng Eusebius và là vị giáo hoàng thứ 32 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Luciô I** (Tiếng Latinh: _Lucius I_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Cornelius và là vị Giáo hoàng thứ 22 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông lên
**Alexanđê I** (Tiếng Latinh:_Alexander I_) là Giáo hoàng thứ sáu của Giáo hội Công giáo. Thời gian cai trị của ông được xác định là từ 106 - 115 (Louis Duchesne), 109 – 116 (Lightfoot).
Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, ngày nay là trụ sở của Trung tâm Đào tạo của Viện Hạt nhân và Trung tâm Văn hóa Thanh Thiếu Niên tỉnh Lâm Đồng. **Giáo
**Hônôriô II** (Latinh: **Honorius II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Callixtus II và là vị giáo hoàng thứ 163 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Biển Đức III** hoặc **Bênêđictô III** (Latinh: _Benedictus III_) là vị giáo hoàng thứ 104 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 856
**Gioan IV** (Tiếng Latinh: _Joannes IV_) là vị giáo hoàng thứ 72 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 640 và cai
**Clêmentê XII** (Latinh: **Clemens XII**) là vị giáo hoàng thứ 246 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1730 và ở ngôi Giáo
**Phaolô V** (Latinh: **Paulus V**) là vị giáo hoàng thứ 233 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông ở ngôi Giáo hoàng trong 15 năm 7 tháng 13
**Caiô** (Latinh:**Caius**) là vị giáo hoàng thứ 28 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông lên ngôi Giáo hoàng vào năm 283 và triều đại của ông kéo
**Hội Thừa sai Việt Nam** là một tổ chức truyền giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, thành lập năm 1971, với mục đích đào tạo và hướng dẫn các vị truyền giáo Việt
**Higinô** (Latinh: _Hyginus_) là vị giáo hoàng thứ 9 của Giáo hội Công giáo. Ông được suy tôn là thánh và được kính nhớ vào ngày 11 tháng 1. Truyền thống cho rằng ông được
**Pascalê I** (Latinh: Paschalis) là vị giáo hoàng thứ 98 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Stephen IV (V) và được giáo hội suy tôn là thánh sau khi
**Antêrô** (Tiếng Latinh: _Anterus_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Pontianus và là vị Giáo hoàng thứ 19 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa thánh năm 1861 thì ông lên ngôi Giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng