Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (zh. yǎngshān huìjì 仰山慧寂, ja. kyōzan ejaku), 807-883, là Thiền sư Trung Quốc, môn đệ lừng danh của Quy Sơn Linh Hựu và là người cùng thầy khai sáng tông Quy Ngưỡng. Trí huệ và kinh nghiệm giác ngộ thâm sâu của sư nổi danh trong thiền giới thời đó nên sư cũng có biệt danh là "Tiểu Thích-ca." Môn đệ hàng đầu của sư là Nam Tháp Quang Dũng, Vô Trước Văn Hỉ và Tây Tháp Quang Mục. Trước tuổi 20, sư yết kiến và trau dồi kinh nghiệm với nhiều ngôi sao sáng trong Thiền tông và đã mang danh là một thiền sinh xuất sắc. Dưới sự hướng dẫn của Quy Sơn, sư đạt yếu chỉ thiền.
Cơ duyên
Sư họ Diệp, quê ở Hoài Hoá, Thiều Châu. sư muốn xuất gia nhưng cha mẹ không cho, bèn chặt hai ngón tay, thệ nguyện cầu chính pháp để đáp ân nghĩa. Cha mẹ đành cho phép. Chưa thụ giới cụ túc, sư đã đi du phương.
Đến Thiền sư Thạch Sương Tính Không, nghe một vị tăng hỏi Tính Không: "Thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây sang?" Tính Không liền đáp: "Như người trong giếng sâu ngàn thước, người này chẳng nhờ một tấc dây mà ra được, người này trả lời được." Câu trả lời này cứ quấn mãi tâm Sư. Đến Đam Nguyên Ứng Chân, sư hỏi: "Thế nào là người trong giếng ra được?" Đam Nguyên liền đáp: "Đồ ngốc! Ai ở trong giếng?" Dù sư chưa hiểu nhưng vẫn được Đam Nguyên truyền cho cách sử dụng 97 viên tướng để hoằng hoá, một phương pháp quan trọng để hướng dẫn môn đệ sau này trong tông Quy Ngưỡng.
Đến Quy Sơn Linh Hựu, Quy Sơn hỏi:
:"Ngươi là Sa-di có chủ hay không chủ?"
:Sư thưa: "Có chủ."
:Quy Sơn lại hỏi: "Chủ ở chỗ nào?"
:Sư từ bên Đông sang bên Tây đứng, Quy Sơn biết môn đệ thượng hạng.
:Sư trình lại câu hỏi "Thế nào ra khỏi giếng ngàn thước không cần dây."
:Quy Sơn hét: "Huệ Tịch!"
:Sư ứng: "Dạ."
:Quy Sơn bảo: "Ra rồi!"
Nhân đây, sư đại ngộ triệt để, lại hỏi:
:"Thế nào là chỗ trụ của chư Phật?"
:Quy Sơn bảo: "Dùng cái diệu tư (nghĩ nhớ) mà không tư, xoay cái tư tinh anh sáng suốt vô cùng. Tư hết, trở về nguồn, nơi tính tướng thường trụ, sự lý không hai, Chân Phật như như."
Sư trút sạch hồ nghi nơi đây, ở lại hầu hạ Quy Sơn.
Sư đến phiên chăn trâu sườn núi, thấy một vị tăng lên núi không bao lâu trở xuống, Nghe sư hỏi vì sao, vị tăng thuật lại: "Hoà thượng hỏi tôi tên gì, tôi thưa Quy Chân, Hoà thượng hỏi Quy Chân ở đâu, tôi đáp không được." Sư bảo vị tăng, nếu Quy Sơn hỏi như vậy nữa thì trả lời "Quy Chân ở trong mắt, trong tai, trong mũi." Vị tăng lại lên núi ra mắt Quy Sơn. Quy Sơn hỏi lại như trước, vị tăng trả lời như sư đã dạy và bị Quy Sơn quở: "Kẻ nói suông vô ích, đây là lời của thiện tri thức đứng đầu 500 người!"
Sư và thầy đồng tình đồng ý như hai cha con nên người đời cũng nói rằng "Hai cha con hát bằng một miệng." Sư học hỏi nơi Quy Sơn 15 năm, trước về Vương Mãn, sau về Ngưỡng Sơn trụ trì, người người đua nhau đến học.
Pháp ngữ
thumb|Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
Sư thượng đường dạy chúng:
:"Hết thảy các ngươi, mỗi người tự hồi quang phản quán, chớ ghi ngôn ngữ của ta. Các ngươi từ kiếp vô thủy đến giờ trái sáng hợp tối, gốc vọng tưởng quá sâu khó nhổ mau được. Do đó giả lập phương tiện dẹp thức thô của các ngươi, như đem lá vàng dỗ con nít khóc, có cái gì là phải? Như các người bán hàng hoá cùng bán vàng lập phố. Bán hàng hoá thì chỉ nghĩ thích hợp với người mua. Vì thế, nói 'Thạch Đầu là phố chân kim, chỗ ta là phố tạp hoá.' Có người đến tìm phân chuột ta cũng bết phân chuột cho, kẻ khác đến cầu chân kim ta cũng trao cho... Tìm hỏi thì có trao đổi, chẳng tìm hỏi thì không ta. Nếu nói bên thân Thiền tông cần một người làm bạn cũng không, huống là có năm bảy trăm chúng. Nếu ta nói Đông nói Tây, ắt giành nhau lượm lặt, như đem nắm tay không để lừa gạt con nít, trọn không có thật. Nay ta nói rõ các ngươi, việc bên cạnh thánh, chớ đem tâm nghĩ tính, chỉ nhằm vào biển tính của chính mình mà tu hành như thật..."
Sư trước ở Ngưỡng Sơn, sau dời về Quan Âm chỉ dạy tăng chúng.
Sắp tịch, sư làm bài kệ:
:一二二三子
:平目復仰視
:兩口一無舌
:即是吾宗旨
:Nhất nhị nhị tam tử
:Bình mục phục ngưỡng thị
:Lưỡng khẩu nhất vô thiệt
:Tức thị ngô tông chỉ.
:Một hai hai ba con
:Mắt thường lại ngước xem
:Hai miệng một không lưỡi
:Đây là tông chỉ ta.
Nói xong, sư ngồi hai tay bó gối viên tịch, thọ 77 tuổi. Vua phong danh hiệu Trí Thông Thiền sư. Những lời khuyên dạy của sư được ghi trong Viên Châu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch Thiền sư ngữ lục.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngưỡng Sơn Huệ Tịch** (zh. _yǎngshān huìjì_ 仰山慧寂, ja. _kyōzan ejaku_), 807-883, là Thiền sư Trung Quốc, môn đệ lừng danh của Quy Sơn Linh Hựu và là người cùng thầy khai sáng tông Quy
**Quy Sơn Linh Hựu** (; tiếng Nhật: _Isan Reiyū_; 771-853) là một vị Thiền sư Trung Quốc trứ danh, môn đệ của Bách Trượng Hoài Hải và thầy của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Cùng với
**Quy Ngưỡng tông** (zh. _guī-yǎng-zōng_ 潙仰宗, ja. _igyō-shū_) là một dòng Thiền do Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu và đệ tử là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch sáng lập, được xếp vào Ngũ gia thất
**Tam Thánh Huệ Nhiên**, hay còn gọi **Tam Thánh Tuệ Nhiên** ( hoặc 三圣慧然, ja. _sanshō enen_), tk. 9, là Thiền sư Trung Quốc, một trong những môn đệ thượng thủ nối pháp của Thiền
nhỏ|phải|Tượng thờ Quốc mẫu Âu Cơ tại Đền Hùng trong Công viên Tao Đàn nhỏ|phải|Ban thờ Tam Tòa Thánh mẫu trong Phật điện của Tu viện Vĩnh Nghiêm thuộc Quận 12 Điện thờ [[Liễu Hạnh
**Nam Tháp Quang Dũng** (南塔光涌[湧], Nantō Kōyū, 850-938) là một thiền sư Trung Quốc, đệ tử đời thứ 3 Quy Ngưỡng Tông, nối pháp Ngưỡng Sơn Huệ Tịch. Ông là một thiền sư nổi tiếng,
**Tây Tháp Quang Mục** (tiếng Trung: 西塔光穆, tiếng Nhật: Saitō Kōboku, ?-?) là thiền sư đời thứ 3 Quy Ngưỡng tông. Sư nối pháp thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là sư huynh đệ đồng
**Cố đô Huế**, còn gọi là **Phú Xuân**, là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm
Di tích quốc gia đặc biệt đền Hùng ở Phú Thọ Di tích văn hóa [[Miếu Bà Chúa Xứ ở An Giang]] Thánh địa [[Mỹ Sơn]] Di tích kiến trúc nghệ thuật [[nhà thờ đá
**Tư Phúc Như Bảo** (資福如寶; C: zīfú rúbǎo; J: shifuku nyohō, 890-960, khoảng thế kỷ IX-X) là một thiền sư Trung Hoa thuộc đời thứ 4 Quy Ngưỡng Tông. Sư là đệ tử nổi pháp
Việt Nam là quốc gia thịnh hành **tục thờ cúng động vật** xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Phước Tích** thuộc tổ dân phố Phước Phú, phường Phong Hòa, thị xã Phong Điền, thành phố Huế, Việt Nam. Phước Tích được nhà nước công nhận và trao bằng xếp hạng _"Di tích quốc
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
Các đàn tế trong quần thể di tích Cố đô Huế bao gồm: *Đàn Nam Giao *Đàn Sơn Xuyên *Đàn Xã Tắc *Đàn Tiên Nông *Đàn Âm Hồn Trong các đàn trên chỉ có Đàn
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
nhỏ|phải|Cổng vào chùa Phụng Sơn (chùa gò) **Chùa Phụng Sơn**, tên chữ là **Phụng Sơn Tự**, còn có tên là **chùa Gò**, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11,
**Vô Ngôn Thông** (zh. 無言通), 759 (?) – 826, là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, sư qua Việt Nam, ở tại
**Ngũ gia thất tông** (zh. 五家七宗, ja. _goke-shishishū_) là năm nhà và bảy tông của Thiền tông Trung Quốc. Ngũ gia gồm có: #Quy Ngưỡng tông, do hai Thiền sư khai lập là Quy Sơn
**Khu di tích lịch sử Kim Liên** là khu di tích tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An thuộc vùng duyên hải miền Trung Việt
**Ba Tiêu Huệ Thanh** (tiếng Trung: 芭蕉慧清, tiếng Nhật: Bashō Esei) là một thiền sư Trung Hoa sống vào thế kỷ 10, thuộc đời pháp thứ 04 tông Quy Ngưỡng, nối pháp Thiền sư Nam
Dụng ngữ Thiền **Hành cước** (行腳/_angya_) có nghĩa là đi chu du đây đó nhằm mục đích học hỏi. Cách gọi khác là **Du phương** (遊方), **Du hành** (遊行), **Vân thủy** (雲水) có hai nghĩa
**Phổ Hoá** (zh. _pǔhuà_ 普化, ja. _fuke_), ?-860, cũng được gọi là **Trấn Châu Phổ Hoá**, là Thiền sư Trung Quốc dòng Mã Tổ Đạo Nhất, môn đệ của Thiền sư Bàn Sơn Bảo Tích.
**Ngữ Phong Viên Tín** (zh. 語風圓信, ja. _Gofū Enshin_, 1571-1647), còn có hiệu là **Tuyết Kiều Viên Tín,** cuối đời lấy hiệu là **Ngữ Phong Lão Nhân,** là Thiền sư Trung Quốc cuối đời nhà
**Bửu Sơn Kỳ Hương** là một giáo phái có ảnh hưởng lớn đến lịch sử và chính trị tại Nam Kỳ (Việt Nam) từ giữa thế kỷ 19. Toàn cảnh chùa Thới Sơn ([[Tịnh Biên)]]
**Hương Nghiêm Trí Nhàn** (zh: 香嚴智閑, _xiāngyán zhìxián_, ja: _kyōgen chi-kan_, ?-898) là Thiền sư Trung Quốc đời Đường. Sư thuộc Quy Ngưỡng Tông đời thứ hai, nối pháp Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu.
trái|nhỏ|464x464px|Tranh [[Thủy mặc - Huệ Năng đốn tre (六祖砍竹图)]] **Huệ Năng** (zh. _huìnéng/ hui-neng_ 慧能, ja. _enō_) (638-713), hay **Lục Tổ Huệ Năng**, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông
**Đại Huệ Tông Cảo** (zh: 大慧宗杲 _Ta-hui Tsung-kao,_ ja: _Daie Sōkō_, 1088–1163) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Dương Kì, tông Lâm Tế. Sư là pháp tử nổi danh nhất của Thiền
**Phật Đà Kỷ Niệm Quán Phật Quang Sơn** (Fo Guang Shan Buddha Museum) Gọi tắt là (Phật Quán), tòa kiến trúc Phật giáo tại thành phố Cao Hùng, Đài Loan. Đây là nhà Bảo Tàng
**Phó Đại Sĩ**-**Thiện Huệ** (zh: 傅翕) (497-569) hay còn gọi là Phó Hấp hay Ngư hành đại sĩ, Phó đại sĩ, Song lâm đại sĩ, Đông dương đại sĩ, Ô thương cư sĩ. Ông là
**Từ Huệ** (chữ Hán: 徐惠; 627 - 650), còn được gọi là **Từ Hiền phi** (徐賢妃), là một phi tần của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đường.
**Chùa Long Sơn** Đài Bắc (chùa Long Sơn Vạn Hoa hoặc chùa Long Sơn Mãnh Giáp), gọi tắt là Chùa Long Sơn. Vị trí nằm ở khu Vạn Hoa (tên gọi cũ là Mãnh Giáp)
**Vô Trước Văn Hỉ** (820 - 899) (; ; ), đời thứ 03 Quy Ngưỡng Tông, nối pháp Thiền Sư Huệ Tịch, huynh đệ đồng môn với Thiền sư Quang Dũng và Tây Tháp. Sư
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
**Chùa Hương Tích** (tên chữ: Hương Tích Cổ Tự; tên dân gian: chùa Thơm) là ngôi chùa nằm tại đỉnh Hương Tích thuộc dãy núi Hồng Lĩnh ở xã Thiên Lộc huyện Can Lộc tỉnh
Từ năm 1960, Đường Nguyễn Huệ, Thành phố Hồ Chí Minh có chợ hoa xuân vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán, là nơi tập trung mua bán hoa tết cây cảnh. Nhà vườn tập kết
**Điện Hòn Chén** hay **Huệ Nam Điện** tọa lạc trên núi Ngọc Trản, phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế. Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Hát văn**, còn gọi là **chầu văn**, **hát hầu đồng**, **hát bóng**, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
**Phan Bội Châu** (chữ Hán: 潘佩珠; 1867 – 1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc. ## Tên gọi Phan Bội Châu vốn tên
Hoà thượng **Tuyên Hóa** (tiếng Hán: 宣化上人), pháp danh là **An Từ**, tự **Độ Luân**; 26 tháng 4 năm 1918 – 7 tháng 6 năm 1995) là một tu sĩ Phật giáo gốc Trung Quốc,
**Thiên Hậu Thánh Mẫu** () hay **bà Thiên Hậu**, còn gọi là **Ma Tổ** (媽祖), **Mẫu Tổ** (母祖), hay là **Thiên Thượng Thánh Mẫu** (天上聖母) hoặc **Thiên Hậu Nguyên quân** (天后元君); là một vị thần
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
**Gia Lâm** là một huyện cũ ngoại thành nằm ở phía đông thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Gia Lâm nằm ở phía đông ngoại thành của thủ đô Hà Nội,
nhỏ|Thiền sư [[Vân Môn Văn Yển, tổ sáng lập Vân Môn tông.|229x229px]] **Vân Môn tông** (zh. 雲門宗, ja. _Unmon-shū_) là một thiền phái thuộc Ngũ gia thất tông - Thiền tông Trung Quốc, do Thiền
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt