✨Thiên hoàng Shōmu

Thiên hoàng Shōmu

Thánh Vũ Thiên hoàng (聖武天皇, Shōmu- tennō, 701 - 4 tháng 6, 756) là Thiên hoàng thứ 45 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua Nhật.

Triều Shōmu kéo dài từ ngày 3 tháng 3 năm 724 đến ngày 19 tháng 8 năm 749

Tường thuật truyền thống

Ông có tên thật là Obito no Miko, con trai của Thiên hoàng Monmu có với người vợ là Fujiwara no Miyako, con gái của Fujiwara no Fuhito. Hoàng tử Obito lớn lên trong cảnh hỗn loạn của triều đình: cha băng hà, hai người bà (Thiên hoàng Gemmei) và cô của ông (Thiên hoàng Genshō) thay nhau kế ngôi. Hơn nữa, lúc này thế lực của họ Fujiwara trỗi dậy và bắt đầu khuynh đảo triều đình. Đầu năm 724, Genshō chỉ định cháu mình làm người thừa kế trước khi thoái vị. Sau khi Genshō rời bỏ ngôi vị (tháng 3/724), cháu của bà là hoàng tử Obito lên ngôi, lấy hiệu là Thiên hoàng Shōmu.

Trị vì

Triều đại của Shōmu đánh dấu sự hỗn loạn của đất nước, khi các chúa phong kiến địa phương nổi loạn khuynh đảo chính quyền trung ương. Ngay sau khi lên ngôi Thiên hoàng, Shōmu cưới hoàng hậu Kômyôshi (Quang Minh tử), con gái của Fujiwara no Fuhito có với bà Agata Inukai no Michiyo vốn có thế lực lớn trong triều đình. Việc cưới vợ là một bề tôi (họ Fujiwara) cho Thiên hoàng đã phá vỡ tục lệ cổ xưa của Nhật Bản cho rằng Thiên hoàng chỉ cưới vợ trong hoàng triều Nhật Bản. Thế nhưng, các tập quán lâu đời này của triều đình cũng không ngăn chặn nổi thế lực nhà Fujiwara.

Để tránh sự cô lập quốc tế, vua Bột Hải Vũ Vương của vương quốc Bột Hải bắt đầu cử sứ thần sang Nhật Bản từ tháng 8 năm 727. Đoàn sứ giả Bột Hải gồm 24 người, bao gồm các tướng lĩnh cấp cao như Ko In-ui và Ko Ched-ok. Bột Hải Vũ Vương nhờ đoàn sứ giả Bột Hải gửi 300 bộ lông chồn đến Nhật Bản vừa để thể hiện sự thiện chí vừa là mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa Bột Hải với Nhật Bản. Khi đó có một học sinh được cử từ Tân La đến Nhật Bản để đào tạo phiên dịch tiếng Nhật đã hỗ trợ một phái viên ngoại giao từ vương quốc Bột Hải giao tiếp với toàn thể triều đình Nhật Bản. Sứ giả Bột Hải đã tuyên bố với triều đình Nhật Bản rằng Bột Hải đã "thu hồi vùng đất Cao Câu Ly (Goguryeo) đã mất và kế thừa những truyền thống cũ của Phù Dư (Buyeo)". Nhật Bản, vốn đã có mối quan hệ căng thẳng với Tân La (đời vua Tân La Thánh Đức vương) đã hoan nghênh vương quốc với vị thế của một Cao Câu Ly (Goguryeo) và Phù Dư (Buyeo) hồi sinh.

Năm 729 (Tenpyô nguyên niên), Tả đại thần là Hoàng thân Nagaya được sự hậu thuẫn của thế lực hoàng tộc nên âm mưu phát động chính biến lật đổ cánh Fujiwara. Âm mưu không thành, ông bị Muchimaro đem quân bao vây nhà và dồn đến bước đường cùng, phải tự sát. Với sự kiện trên, họ Fujiwara bắt đầu trỗi dậy khuynh đảo triều đình. Bà Kômyôshi, con của nhân thần (jinshin) tức là bầy tôi mà lại được leo lên tới địa vị tối cao là hoàng hậu. Bà là người có lòng tin sâu sắc vào Phật giáo nên chỉ một năm sau khi trở thành Kômyô Kôgô (Quang Minh Hoàng Hậu), bà đã lập viện Hiden-in (730) làm nơi cứu trợ người bần cùng và cô nhi trong xã hội cũng như mở Seyaku-in, cơ sở cấp thuốc men và chữa trị cho họ.

Về sau do dịch bệnh hoành hành, dòng họ Fujiwara suy yếu và họ Tachibana của người anh họ Thiên hoàng (Tachibana no Moroe, anh cùng mẹ khác cha với Hoàng hậu Kômyô) lên nắm quyền, phò tá cho Thiên hoàng Shōmu. Tuy nhiên, dịch đậu mùa và hơn nữa là làn sóng chống đối họ Tachibana lại nổi lên, nhất là khu vực đảo Kyushu - đại bản doanh của họ Fujiwara.

Từ năm 737, vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải tăng cường ngoại giao và thương mại với Nhật Bản hòng gây sức ép với địch thủ Tân La ở mặt Nam. Bột Hải đã cử một số lượng lớn sứ giả đến Nhật Bản, được gọi là . Người Bột Hải tự hào là người thừa kế của Cao Câu Ly. Các thư tín gửi cho Thiên hoàng Nhật Bản chỉ ra rằng các vị vua Bột Hải tự nhận mình là "vua Cao Câu Ly". Lông thú từ vương quốc Bột Hải được xuất khẩu sang Nhật Bản trong khi các sản phẩm dệt may và kim loại quý như vàng và thủy ngân được nhập khẩu từ Nhật Bản. Ở Nhật Bản, lông của điêu (ten, tức là sable hoặc marten khác, tên một loài chồn đen ở vùng Tây Bá Lợi Á, da nó cực kì quý) rất có giá trị do nó được giới quý tộc Nhật Bản ưa chuộng. Tương tự như vậy, những người xây dựng của Bột Hải đã sử dụng các kỹ thuật công sự của Nhật Bản với nền văn hóa Nhật Bản đang thịnh hành trong quá trình xây dựng . Các tác phẩm âm nhạc Shinmaka () của Bột Hải đã được bảo tồn bởi triều đình Nhật Bản.

Tháng 8/740 (Tenpyō thứ 12): Fujiwara no Hirotsugu (Đằng Nguyên Quảng Tự) nổi dậy chống triều đình ở phủ Dazai, đảo Kyushu nhằm đánh đuổi họ Tachibana, phục hồi quyền lực cho gia đình Fujiwara. Ông ta tập hợp được hơn một vạn người gồm hào tộc và nông dân trên đảo và nổi dậy chống lại chính quyền, nhưng đạo quân nổi loạn của ông ta đã bị đội quân 17.000 người do tướng của triều đình gửi ra là Ono no Azumahito đánh dẹp được. Hirotsugu bị bắt, bị triều đình chém đầu ở tỉnh Hizen.

Tháng 11/740, Thiên hoàng Shōmu dời đô về Kuni-kyō.

Năm 741 (Tenpyô thứ 13), vì muốn dựa vào triết lý Phật giáo hộ quốc để trấn an mọi người, Thiên hoàng hạ chiếu lập những ngôi chùa ở mỗi địa phương gọi là Kokubunji (chiếu ấy tên là Kokubunji Konryuu no Mikotonori). Theo chiếu chỉ của ông, chùa ở Nhật được xây thành hai loại: chùa địa phương (kokubunji) và chùa sư nữ địa phương (kokubun niji). Tên chính thức của nó rắc rối hơn nhiều: Konkômyô shitennô gokoku no tera (Kim quang minh tứ thiên vương hộ quốc tự) và Hokke mezzai no tera (Pháp hoa diệt tội tự). Chú ý hai chữ "hộ quốc" và "diệt tội". Nhà sư hoạt động mạnh mẽ dưới thời ấy là tăng Gyôki (Hành Cơ). Ông đã góp công lớn trong việc huy động nhân lực và tài vật để dựng pho tượng Phật khổng lồ gọi là Đại Phật (Daibutsu).

Năm 743 (Tenpyō thứ 15): Thiên hoàng Shōmu đã giáng chiếu dựng tượng Phật khổng lồ (Daibutsu Zôryuu no Mikotonori) bằng hợp kim đồng (đồng dát vàng) tục gọi là tượng Rushanabutsu (Lô Xá Na Phật). Đến khi rời đô về Heijô thì công sự dựng tượng cũng dời về chùa Tôdaiji (Đông Đại Tự) ở Nara. Tượng được khánh thành vào năm Tenpyō-shōhō thứ tư (năm 752) thời Thiên hoàng Kōken.

Năm 744 (Tenpyō thứ 16): Vào mùa xuân, kinh đô được chuyển đến Naniwa-kyō mà sau đó trở thành thủ đô mới

Năm 745 (Tenpyō thứ 17): Thiên hoàng tuyên bố Shigaraki-kyo là thủ đô

Năm 745 (Tenpyō thứ 17): Ông trở về Heijō-kyō, tiếp tục xây dựng Đại Phật.

Tháng 4/749 (Tenpyō thứ 21): Shōmu dẫn đầu đoàn hoàng tộc tham dự đám rước tượng Đại Phật về chùa Todaiji. Ông cùng gia quyến đứng trước tượng Đại Phật và tuyên bố mình là tín đồ trung thành của Phật giáo.

Tháng 8/749 (Tenpyō thứ 21, tháng 7), Thiên hoàng Shōmu thoái vị nhường ngôi cho con gái mình, nữ Thiên hoàng Kōken.

Cuối đời

Thiên hoàng làm lễ cạo đầu và trở thành một tu sĩ Phật giáo khiến ông trở thành Thiên hoàng đầu tiên đi tu sau khi thoái vị. Kōmyō, theo gương của chồng, bà cũng trở thành một nữ tu sĩ Phật giáo. Là tín đồ trung thành của đạo Phật, Kōmyō khuyến khích việc xây dựng và làm giàu cho các ngôi chùa khác nhau, bao gồm cả Shinyakushi-ji (Nara), Hokke-ji (Nara), Chùa Kofuku-ji (Nara), và Todai-ji (Nara).

Năm 752 (Tenpyō-shōhō thứ 4 của tháng 4), nghi lễ Khai Quang Điểm Nhãn cho tượng Đại Phật, được chủ trì bởi sư Rōben và để chúc mừng công hoàn thành của bức tượng, được tổ chức ở chùa Todai-ji

Shōmu qua đời ở tuổi 56. Lăng mộ của ông ở gần thành phố Nara, có tên Sahoyama no minami no misasagi.

Kugyō

  • Daijō daijin (720-735), Toneri - shinnō (舎人親王) (con trai thứ 9 của Hoàng đế Temmu).
  • Daijō daijin (737-745), Suzuka - o (鈴鹿王) (con trai của Hoàng tử Takechi).
  • Tả đại thần: (724-729), Nagaya - o (長屋王) (con trai của Hoàng tử Takechi).
  • Tả đại thần: (743-756), Tachibana no Moroe (橘諸兄) (trước đây là Katsuragi -o, Hoàng tử Katsuragi) (nửa người anh em của Hoàng hậu Kōmyō)
  • Hữu đại thần: (734-737), Fujiwara no Muchimaro (藤原武智麻呂) (con trai của Fujiwara no Fuhito).
  • Nội đại thần, Fujiwara no Toyonari (藤原豊成) (con trai của Fujiwara no Muchimaro)
  • Đại nạp ngôn: Fujiwara no Fusasaki (藤原房前) (con trai của Fujiwara no Fuhito)

Niên hiệu

  • Jinki (724-729)
  • Tenpyō (729-749)
  • Tenpyō-kanpō (749)

Gia quyến

Hậu phi

Hậu duệ

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thánh Vũ Thiên hoàng** (聖武天皇, _Shōmu- tennō_, 701 - 4 tháng 6, 756) là Thiên hoàng thứ 45 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua Nhật. Triều Shōmu kéo dài
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
là Thiên hoàng thứ 50 của Nhật Bản theo danh sách thứ tự kế thừa. Kanmu trị vì từ năm 781 đến 806. ## Tường thuật truyền thống Tên thật (_imina_ ) của Kanmu là
là Thiên hoàng thứ 49 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều Konin của kéo dài 770-781. ## Tường thuật truyền thống Tên thật của Thiên hoàng Konin là
là thiên hoàng thứ 46 và cũng là - thiên hoàng thứ 48 theo danh sách thiên hoàng truyền thống của Nhật Bản. Bà là nữ Thiên hoàng thứ hai lên ngôi hai lần, sau
là thiên hoàng thứ 42 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều Monmu kéo dài từ ngày 22 tháng 8 năm 697 và kết thúc vào ngày 18 tháng
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
là thiên hoàng thứ 44 của Nhật Bản theo thứ tự kế thừa truyền thống. Bà là người đương vị nữ hoàng trong lịch sử của Nhật Bản đã thừa hưởng danh hiệu của mình
là thiên hoàng thứ 47 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều đại của ông kéo dài những năm 758 đến 764 ## Tường thuật truyền thống Ông có
là Thiên hoàng thứ hai của Bắc triều do nhà Ashikaga lập nên để chống lại Nam triều của Thiên hoàng Go-Murakami. Theo các học giả thời tiền Minh Trị, triều đại của ông kéo
thumb|[[Thiên hoàng Uda - vị Pháp hoàng đầu tiên.]] **Thái thượng Pháp hoàng** (chữ Hán: 太上法皇; Kana: だじょうほうおうDajō Hō-ō) là một danh hiệu của Thái thượng Thiên hoàng sau khi vị Thái thượng Thiên hoàng
thế=|nhỏ|Hoàng hậu Quang Minh được vẽ bởi Ryūryūkyo Shinsai nhỏ|Một ví dụ về thư pháp của Hoàng hậu Kōmyō và chữ ký của bà - _Gakki-ron_ (khoảng năm 756).(701 – 23 tháng 7 năm 760),
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
Tại Nhật Bản, là tước vị được dành cho chính thất của Thiên hoàng, khi một người phụ nữ ngồi vào ngôi vị Nhật hoàng, bà ta sẽ được gọi là hay . Nhật Bản
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
thumb|Hoàng hậu [[Saionji Kishi (1303–1333) và Thiên hoàng Go-Daigo (1288–1339) trong bản vẽ được lấy từ _Taiheiki Emaki_ (thế kỷ 17). Được sở hữu bởi Bảo tàng Lịch sử và Văn hóa dân gian tỉnh
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
, còn được gọi là Biến loạn Emi, là một cuộc đối đầu quân sự vào thời kỳ Nara trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và cuối cùng phải chuốc lấy thất bại do
là một nhân vật quyền lực của triều đình Nhật Bản sống vào thời kỳ Asuka và Nara. Ông là con trai thứ hai của Fujiwara no Kamatari (có giả thuyết cho rằng ông là
là công khanh (_kuge_), triều thần, và chính khách thời Nara. Ông là con trai của _sadaijin_ (Tả đại thần) Tachibana no Moroe và là tộc trưởng thứ hai của gia tộc Tachibana. Ông được
nhỏ|Fujiwara no Hirotsugu trong bản vẽ của Kikuchi Yōsai là một cuộc nổi loạn vào thời kỳ Nara do lãnh chúa các đảo của Nhật Bản phát động vào năm 740. Nguyên nhân là do
là một vị thân vương và công khanh (_kuge_) phụng sự triều đình của Thiên hoàng Shōmu và Nữ Thiên hoàng Kōken. ## Tiểu sử Nhà Tachibana được xem là thuộc về hoàng tộc vì
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
, là gia tộc hậu duệ của gia tộc Nakatomi thông qua Ame-no-Koyane-no-Mikoto, là một gia tộc nhiếp chính quyền lực ở Nhật Bản. Gia tộc được mở đầu khi người sáng lập, Nakatomi no
**Văn Vương** (trị vì 737 – 793) có tên là **Đại Khâm Mậu** (대흠무, 大祚榮, Dae Heum-mu), là vị vua thứ ba và có thời gian trị vì dài nhất của vương quốc Bột Hải.
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Thủ đô của Nhật Bản **trên thực tế hiện tại là Tokyo, với hoàng cung của Thiên Hoàng và văn phòng chính phủ Nhật Bản và nhiều tổ chức chính phủ. Cùng với đó thì
là trận dịch đậu mùa đã cướp đi sinh mạng khoảng 1 phần 3 dân số Nhật Bản (25%–35%). Dịch bệnh đã gây ra những tác động đáng kể về mặt xã hội, kinh tế
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
**Đại Nguyên Nghĩa** (mất năm 794, trị vì 793 – 794) là vị quốc vương thứ tư của Vương quốc Bột Hải. Đại Nguyên Nghĩa (Dae Won-ui) là vương tử thứ 4 của Bột Hải
**Bột Hải Quang Tông** (682 - 737), tên thật **Đại Võ Nghệ** (), được biết đến với thụy hiệu **Vũ Vương** ( ; trị vì 719 – 737), là vị quốc vương thứ hai của
thumb|Heijō-kyō ruins **Heijō-kyō** (**Bình Thành Kinh**) là trung tâm chính trị, thủ đô của Nhật Bản vào thời Nara, vì vậy cũng được gọi là kinh đô Nara. Heijō-kyō nằm ở vùng phụ cận của
Tòa nhà chọc trời Umeda Thủy cung Kaiyukan [[Thành Osaka]] là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Osaka, Nhật Bản và là một đô thị quốc gia. Thành phố Ōsaka nằm ở vùng Kinki trên
Ngày **3 tháng 3** là ngày thứ 62 (63 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 303 ngày trong năm. ## Sự kiện *473 – Tổng tư lệnh quân đội mới đảm nhiệm là Gundobad
**Thánh Đức Vương** (trị vì 702–737) là quốc vương thứ 33 của vương quốc Tân La. Ông là vương tử thứ hai của Thần Văn Vương, và là đệ của Hiếu Chiêu Vương. Năm 704,
thumb|Hình ảnh cuối thế kỉ 19 của một _[[yamabushi_ với đầy đủ áo choàng và trang bị, đang cầm một _naginata_ và một _tachi_.]] Các bộ môn **võ thuật Nhật Bản** bao gồm nhiều bộ
(cũng được gọi là **Chūjō Hime** hay **Hase-Hime**) (753?–781?) là con gái của quan đại thần Fujiwara no Toyonari, người đã kết hôn với vợ kế là một nữ tu tại đền Taima-dera thuộc tỉnh
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
nhỏ|435x435px|[[Kim Quang Minh Kinh bằng Hán tự Kanji (trưng bày ở bảo tàng nghệ thuật Itsuo)]] **Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh** (Tiếng Phạn: सुवर्णप्रभासोत्तमसूत्रेन्द्रराज, IAST: _Suvarṇaprabhāsottamasūtrendrarājaḥsutra_, Phiên âm: Tu-bạt-noa-bà-phả-bà-uất-đa-ma-nhân-đà-la-già-duyệt-na-tu-đa-la) hay được viết tắt
**Sopdet** (tiếng Ai Cập: _Spdt_, nghĩa là "Tam giác"), còn gọi là **Sothis** trong tiếng Hy Lạp cổ đại (Σῶθις; _Sôthĭs_), là nữ thần hiện thân của sao Thiên Lang, ngôi sao sáng nhất trên
**Hoa Nghiêm tông** (zh. _huáyán-zōng_ 華嚴宗, ja. _kegon-shū_), còn gọi là **Hiền Thủ tông**, là một tông phái quan trọng của Phật giáo Trung Quốc, lấy _Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh_ (sa. _buddhāvataṃsaka-sūtra_)
**_Cô bé Lọ Lem_** hay **_Đôi giày thủy tinh_** (tiếng Anh: _Cinderella_, tiếng Pháp: _Cendrillon, ou La petite Pantoufle de Verre_, tiếng Ý: _Cenerentola_, tiếng Đức: _Aschenputtel_) là một câu chuyện dân gian thể hiện
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba