là Thiên hoàng thứ 50 của Nhật Bản theo danh sách thứ tự kế thừa. Kanmu trị vì từ năm 781 đến 806.
Tường thuật truyền thống
Tên thật (imina ) của Kanmu là Thân vương Yamabe. Ông là con trai cả của Thiên hoàng Quang Nhân. Mẹ ông là Yamato no Niigasa (tên khác là Takano no Niigasa), hậu duệ đời thứ 10 của vua Bách Tế (Triều Tiên) là Muryeong.
Năm 770, Thiên hoàng Quang Nhân lên ngôi, phong anh khác mẹ Yamabe là Thân vương Osabe làm Thái tử. Mẹ Osabe là Công chúa Ikami, con gái của Thiên hoàng Shōmu được tấn phong hoàng hậu. Không lâu sau, năm 772, Kōnin phế truất hai mẹ con Osabe, đem giam ở tỉnh Yamato. Thế là Yamabe trở thành Thái tử. Ông cưới người em khác mẹ (con gái Ikami) là Sakahito làm Thái tử phi. Năm 781, Thiên hoàng Quang Nhân nhường ngôi cho Yamabe. Yamabe lên ngôi tức Thiên hoàng Kanmu, chỉ định em trai là Thân vương Sawara làm người nối ngôi. Bấy giờ, chắt Thiên hoàng Thiên Vũ là Hikami no Kawatsugu (con của thân vương Shioyaki với Fuwa, con gái Thiên hoàng Shōmu) lập mưu phế truất Kanmu, nhưng âm mưu bị phát giác. Kanmu bắt Kawatsugu cùng mẹ đi dày. Đến năm 785, nhà vua lại trục xuất và đày ải Sawara.
Thiên hoàng Kanmu có 16 hoàng hậu và nhiều phu nhân, sinh ra 32 người con gồm trai lẫn gái. Trong số đó, ba người con trai cuối cùng sẽ lên ngai vàng Thiên hoàng: Thiên hoàng Heizei, Thiên hoàng Saga và Thiên hoàng Junna. Một vài người cháu nội của Thiên hoàng Kanmu lần đầu được ban cái tên Taira năm 825 hay muộn hơn. Sau đó, con cháu của Thiên hoàng Nimmyō, Thiên hoàng Montoku, và Thiên hoàng Kōkō cũng được ban họ này. Đặc trưng các chi từ các Thiên hoàng này được thể hiện bằng thụy hiệu của Thiên hoàng trước chữ Heishi. Vd: Kanmu Heishi. Nhà Taira là một trong bốn gia tộc quan trọng thống trị nền chính trị Nhật Bản suốt thời Heian (794-1185) – ba nhà còn lại là Fujiwara, Tachibana và Minamoto.
Trị vì
Ngày 30/4/781, Thiên hoàng Kōnin thoái vị và nhường ngôi cho con trai, hoàng tử Yamabe. Hoàng tử lên ngôi Thiên hoàng, lấy hiệu là Kanmu. Kanmu đổi niên hiệu mới là Ten'ō nguyên niên (781). Vừa lên ngôi, ông đưa Nho giáo thành quốc giáo. Từ năm 781, vua Bột Hải Văn Vương tăng cường ngoại giao và thương mại với Nhật Bản hòng gây sức ép với địch thủ Tân La ở mặt Nam. Người Bột Hải tự hào là người thừa kế của Cao Câu Ly. Các thư tín gửi cho Thiên hoàng Nhật Bản chỉ ra rằng các vị vua Bột Hải tự nhận mình là "vua Cao Câu Ly".
Ngày 28/7/782, Kanmu đổi niên hiệu thành Enryaku nguyên niên. Lúc này ở cung đình đã diễn ra cuộc đảo chính do các đại thần mà cầm đầu là Fujiwara no Uona chống lại Thiên hoàng trẻ tuổi. Cuộc đảo chính thất bại, nó Uona rời đất nước đi lưu vong. Fujiwara no Tamaro được cử làm Udaijin. Cũng trong niên hiệu này, Thiên hoàng cử Shogun Sakanoue no Tamuramaro (758-811) dẫn đầu một đoàn thám hiểm quân sự chống lại Emishi.
Năm 784, Thiên hoàng dời đô từ Nara đến Nagaoka-kýō để tiện việc xây dựng các đền thờ, chùa Phật giáo. Việc tại sao chọn vùng Nagaoka làm kinh đô mới thì có lối giải thích là cả Thiên hoàng Kanmu lẫn người chỉ huy việc xây cất cung điện (Fujiwara no Tanetsugu) đều có mẹ gốc nhập cư xuất thân tự vùng này. Họ có liên hệ mật thiết với cánh nhà Hata tức một thế lực đến từ lục địa. Đồng thời, Kanmu ra sắc lệnh hạn chế số lượng các tu sĩ Phật giáo. Động thái dời đô và xây dựng nhiều đền đài làm nhân dân khánh kiệt, một trận lũ tràn qua làm ngập một nửa thành phố Nagaoka và nhân dân đói khổ. Trong năm này (784), Kanmu mở các lớp dạy người dân học kinh Xuân Thu của Trung Hoa. Thiên hoàng khuyến khích sử dụng hai bài luận của Trung Hoa: Kung-yang and Ku-liang, làm công cụ mở rộng phạm vi của mình ảnh hưởng đến những vùng đất man rợ, do đó có sự hài lòng của người dân Nhật Bản.
Năm 789, Nhật Bản liên tiếp hứng chịu hạn hán và nạn đói triền miên. Các đường phố của thủ đô đã bị tắc với người bệnh, người đói chết tràn lan. Nhiều người đói và mất của cải đó mùa màng thất bát đã phải tham gia quân đội triều đình, lao động cưỡng bức xây dựng các đền đài. Một số lớn người dân cải trang làm tu sĩ Phật giáo để trốn tránh. Cũng trong năm nay, một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân chống triều đình nổ ra mạnh mẽ, nhiều lần đánh bại quân đội Thiên hoàng.
Năm 793, Dưới sự lãnh đạo của Dengyō, dân phu bắt đầu xây dựng Đền Enryaku
Tháng 10/794, Thiên hoàng Kanmu thiên đô đến thủ đô mới và đến ngày 8/11/794, ông đặt tên thủ đô mới này là Heian-kyō (Bình An kinh). Lý do của việc dời đô này là vì ở Nagaoka, triều đình Thiên hoàng gặp nhiều biến cố. Hơn nữa, dịch đậu mùa và điều kiện khí hậu không thuận tiện cho việc canh tác kéo dài nạn mất mùa thêm nhiều năm.
Ngày 17/11/794, Thiên hoàng Kanmu cưỡi xe ngựa từ Nara đến thủ đô mới Heian-kyō trong một đám rước lớn. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của thời đại Heian.
Kanmu cũng tài trợ cho chuyến đi của các nhà sư Saicho (Tối Trừng) và Kūkai đến Trung Quốc để rồi một thời gian sau, họ về nước để hình thành các chi nhánh của Nhật Bản, tương ứng phái Tendai và phái Phật giáo Shingon.
Từ năm 795, vua Bột Hải Khang Vương của vương quốc Bột Hải có các hoạt động thương mại với Nhật Bản và cũng thường xuyên cử sứ thần sang Nhật Bản.
Năm 796, sứ giả từ vương quốc Bột Hải (đời vua Bột Hải Khang Vương) đến Nhật Bản (đời Thiên hoàng Kanmu) tuyên bố rằng vương quốc Bột Hải đã khôi phục toàn bộ lãnh thổ Cao Câu Ly cũ và quyền lực của người cai trị Bột Hải giờ đã lan ra bên kia Liêu Hà. Vương quốc Bột Hải đến chiếm các lưu vực sông Tùng Hoa và sông Ussuri cũng như toàn bộ vùng ven biển liền kề dọc theo Biển Nhật Bản (Đông Hải).
Năm 803, vua Tân La Ai Trang Vương của nước Tân La lập liên minh với Nhật Bản.
Ngày 5/2/806, Thiên hoàng Kanmu băng hà, thọ 70 tuổi. Kế nhiệm ông là con trai, Thiên hoàng Heizei.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là Thiên hoàng thứ 50 của Nhật Bản theo danh sách thứ tự kế thừa. Kanmu trị vì từ năm 781 đến 806. ## Tường thuật truyền thống Tên thật (_imina_ ) của Kanmu là
, cũng được biết đến như _Heijō-Tenno_ là Thiên hoàng thứ 51 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều đại của Heizei kéo dài từ 806 đến 809. ##
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
là Thiên hoàng thứ 49 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều Konin của kéo dài 770-781. ## Tường thuật truyền thống Tên thật của Thiên hoàng Konin là
là Thiên hoàng thứ 59 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Vũ Đa kéo dài từ năm 887 đến năm 897 ## Tường thuật truyền thống Trước khi
là Thiên hoàng thứ 52 theo truyền thống thứ tự kế thừa truyền thống Nhật Bản. Triều đại của Saga kéo dài từ năm 809 đến năm 823. ## Tường thuật truyền thống Saga là
**Thiên hoàng Quang Hiếu** (光孝 Kōkō-tennō | 830 - 26 tháng 8 năm 887) là Thiên hoàng thứ 58 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Koko trị vì từ năm 884
là Thiên hoàng thứ 53 của Nhật Bản theo danh sách truyền thống thứ tự kế thừa. Triều đại Junna trị vì từ kéo dài từ năm 823 đến 833. ## Tường thuật truyền thống
là Thiên hoàng thứ 61 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa ngôi vua truyền thống. Triều đại của Chu Tước kéo dài từ năm 930 đến 946. ## Tường thuật truyền thống Trước
là Thiên hoàng thứ 54 theo danh sách kế thừa truyền thống Nhật Bản. Triều Ninmyō của kéo dài từ 833 đến 850. ## Thiếu thời Ông tên thật là hoàng tử Masara, con trai
Sau đây là một cây gia đình của Nhật hoàng, từ Hoàng đế Jimmu huyền thoại tới nay. Các học giả hiện đại đã đặt câu hỏi về sự tồn tại của ít nhất 9
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
là hoàng hậu của Thiên hoàng Kanmu trong lịch sử Nhật Bản. Bà là con gái của Fujiwara no Yoshitsugu; mẹ của bà là cháu gái của tướng quân Fujiwara no Umakai. Bà kết hôn
thumb|Vị trữ quân cuối cùng của lịch sử [[Việt Nam - Nguyễn Phúc Bảo Long.]] **Trữ quân** (chữ Hán: 儲君), hay còn được gọi là **Tự quân** (嗣君), **Trữ nhị** (儲貳), **Trữ vị** (儲位), **Trữ
thumb| và cảnh quan thành phố của Heian-kyō (mô hình thu nhỏ tại Trung tâm học tập suốt đời thành phố Kyoto) là một trong một số tên cũ của thành phố Kyoto. Đây từng
thumb|Sơ đồ của Bình An kinh cho thấy vị trí của cung điện cũng như cung điện tạm thời Thổ Ngự Môn điện sau phát triển thành hoàng cung Kyoto hiện tại. Phía ngoài Đại
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Fujiwara no Ryoshi** (藤原 旅子, hay **Fujiwara no Tabiko**; 759 -788) là một phụ nữ quý tộc Nhật Bản sống vào thời kỳ Nara. Bà là phối ngẫu của Thiên hoàng Kanmu và là mẹ
, còn được gọi là , là một sự kiện xảy ra vào đầu thời kỳ Heian. Vào năm 810, Thiên hoàng Saga đã đối đầu với Thái thượng Thiên hoàng Heizei, nhưng phe của
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
**Bột Hải Thánh Tông** (trị vì 818 - 830) là vị quốc vương thứ 10 của vương quốc Bột Hải. Ông có tên thật là **Đại Nhân Tú** (대인수, 大仁秀, Dae In-su). Trong giai đoạn
**Đại Di Chấn** (trị vì 830 – 857), là vị quốc vương thứ 11 của vương quốc Bột Hải. Ông là đích tôn của Bột Hải Tuyên Vương, vị quốc vương thứ 10 và là
**Bột Hải Mục Tông** (trị vì 795 – 809) là quốc vương thứ sáu của Vương quốc Bột Hải, tên thật của ông là **Đại Tung Lân** (대숭린, 大嵩璘, Dae Sung-rin). Ông là vương tử
**Bột Hải Triết Tông** (trị vì 817 – 818) là quốc vương thứ 9 của Vương quốc Bột Hải. Ông là vương tử thứ ba của vị quốc vương thứ 6, Bột Hải Khang Vương
**Bột Hải Khang Tông** (trị vì 812 – 817) là vị quốc vương thứ 8 của Vương quốc Bột Hải. Ông là vương tử thứ hai của Bột Hải Khang Vương (Đại Tung Lân), và
**Bột Hải Nghị Tông** (trị vì 809 – 812) là vị quốc vương thứ 7 của vương quốc Bột Hải. Ông là đại vương tử của Bột Hải Khang Vương Đại Tung Lân. Ông có
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Văn Vương** (trị vì 737 – 793) có tên là **Đại Khâm Mậu** (대흠무, 大祚榮, Dae Heum-mu), là vị vua thứ ba và có thời gian trị vì dài nhất của vương quốc Bột Hải.
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
**Đại Nguyên Nghĩa** (mất năm 794, trị vì 793 – 794) là vị quốc vương thứ tư của Vương quốc Bột Hải. Đại Nguyên Nghĩa (Dae Won-ui) là vương tử thứ 4 của Bột Hải
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai. Năm 794,
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
là thần chiến tranh của đạo Shinto, và người bảo vệ thiêng liêng của nước Nhật và người Nhật. Tên của vị thần này có nghĩa là Thần của tám cờ hiệu, nói đến 8
Ngày **17 tháng 11** là ngày thứ 321 (322 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 44 ngày trong năm. ## Sự kiện *794 – Thiên hoàng Kanmu dời đô từ Nagaoka đến Heian, mở
hay **Thuyết lưu vong chống Nhật** là một hệ tư tưởng cấp tiến được thúc đẩy bởi một phái Tân tả dực của Nhật Bản, chủ trương cho sự diệt vong của đất nước Nhật
**Ai Trang Vương** (788–809, trị vì 800–809) là quốc vương thứ 40 của vương quốc Tân La tồn tại trên bán đảo Triều Tiên. Ông là con trai của Chiêu Thánh Vương và Quế Hoa
**Taira** (平) (Bình) là một gia tộc Nhật Bản. Trong lịch sử Nhật Bản, cùng với Minamoto, Taira là một gia tộc cha truyền con nối được Thiên hoàng ban tên từ thời Heian cho