✨Tào Bân

Tào Bân

Tào Bân (chữ Hán: 曹彬, 931 – 999) là tướng lãnh nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Quá trình thăng tiến

Bân tự Quốc Hoa, người huyện Linh Thọ, phủ Chân Định . Cha là Tào Vân, được làm đến Thành Đức quân Tiết độ Đô tri binh mã sứ. Bân mới được đầy năm, cha mẹ bày trăm món đồ chơi trên chiếu, xem ông chọn gì. Bân tay trái nắm võ khí, tay phải nắm mâm cúng, chốc lát sau cầm 1 cái ấn, những thứ khác đều không nhìn đến; mọi người đều lấy làm lạ.

Đến khi trưởng thành, Bân có tính cách thuần hậu. Thời Hậu Hán Ẩn đế, Bân được làm Thành Đức quân nha tướng. Tiết độ sứ Vũ Hành Đức thấy Bân đoan chính thận trọng, nói với người bên cạnh rằng: “Đây là người có chí hướng cao xa, không phải loại tầm thường đâu.” Dì của Bân là Trương thị tái giá làm vợ thứ ba của Quách Uy. Quách Uy soán ngôi nhà Hậu Hán, trở thành Hậu Chu Thái Tổ (951), Trương thị được truy tặng Quý phi (Ẩn đế đã giết cả nhà họ Quách), Bân được triệu về kinh sư, ở dưới trướng con nuôi của Quách Uy là Quách Vinh (về sau là Hậu Chu Thế Tông). Bân theo Quách Vinh trấn thủ Thiền Uyên, được bổ làm Cung phụng quan, rồi cất nhắc làm Hà Trung đô giám. Hà Trung tiết độ sứ Vương Nhân Hạo cho rằng Bân là ngoại thích, đối đãi rất tôn trọng, Bân giữ lễ càng thêm cung kính. Công sở có dịp tiệc tùng tụ tập, Bân giữ thái độ đoan chính, giản dị cả ngày, chưa từng ngó nghiêng. Nhân Hạo nói với tòng sự rằng: “Lão phu tự nhận đêm ngày không nhác, đến khi thấy giám quân giữ mình nghiêm khắc, mới thấy mình tản mạn, khinh soái.”

Năm Hiển Đức thứ 3 (956), Bân được đổi làm Đồng Quan giám quân, thăng Tây thượng các môn sứ. Năm thứ 5 (958), Bân đi sứ Ngô Việt, xong việc lập tức quay về, không nhận một chút lễ vật nào. Người Ngô Việt dùng thuyền nhẹ đuổi theo để tặng, đi lại đến lần thứ tư. Bân vốn không nhận, đến đây thì nói rằng: “Tôi cứ cự tuyệt họ, thì giống như mua danh vậy.” Bèn nhận mà ghi chép lại rồi đem về, giao hết cho triều đình. Hậu Chu Thế Tông cưỡng ép Bân nhận lại, Bân mới thu về, rồi đem tất cả chia cho thân nhân, bạn bè mà không giữ chút gì. Sau đó Bân được ra làm Tấn Châu binh mã đô giám. Ngày nọ, Bân cùng chủ tướng với khách khứa ngồi quây quần ở ngoài đồng. Gặp lúc chủ tướng láng giềng gởi thư đến, sứ giả không nhận ra Bân, ngầm hỏi người ta: “Ai là Tào giám quân?” Người ấy chỉ Bân cho sứ giả, anh ta cho rằng mình bị lừa, cười nói: “Há có quốc thích cận thần lại mặc áo thô đen, ngồi ghế gỗ trơn ư?” Sử giả hỏi kỹ rồi mới tin. Sau đó, Bân được thăng làm Dẫn tiến sứ.

Phục vụ Bắc Tống

Thời Thái Tổ

Cuối đời Hậu Chu, Triệu Khuông Dẫn nắm Cấm quân, Bân giữ trung lập, không nương tựa ông ta. Nếu chẳng có việc công, Bân không hề tìm gặp Khuông Dẫn. Các buổi tiệc tùng gặp gỡ, Bân cũng ít khi tham dự, nên được Khuông Dẫn xem trọng. Năm Kiến Long thứ 2 (961), Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn triệu Bân từ Bình Dương về triều, hỏi ông rằng: “Ta từng muốn kết thân với anh, anh sao lại xa lánh ta?” Bân dập đầu lạy rằng: “Thần là thân thích nhà Chu, lại bất tài mà được nhận chức vụ trong cung, lặng lẽ cung kính làm việc, còn sợ mắc lỗi, nào dám tự đi kết giao?” Sau đó Bân được thăng làm Khách tỉnh sử, cùng Vương Toàn Bân, Quách Tiến lãnh kỵ binh tấn công huyện Bình Nhạc của Bắc Hán, thu hàng 1800 người của bọn tướng Vương Siêu, Hầu Bá Vinh, bắt hơn ngàn người khác. Tiếp đó tướng địch Úy Tiến soái binh đến cứu viện, đôi bên giao chiến 3 trận, quân Tống đều thắng. Triều đình Tống lấy Bình Nhạc để đặt Bình Tấn quân. Năm Càn Đức đầu tiên (963), Bân được đổi làm Tả thần vũ tướng quân. Bấy giờ quân Tống mới hạ Liêu Châu, Bắc Hán mời 6 vạn kỵ binh Khiết Đan đến đánh Bình Tấn, Bân cùng bọn Lý Kế Huân đánh bại quân Khiết Đan ở dưới thành. Ít lâu sau, Bân được kiêm chức Xu mật thừa chỉ.

Mùa đông năm thứ 2 (964), quân Tống đánh Hậu Thục, triều đình giáng chiếu lấy Lưu Quang Nghĩa làm Quy Châu hành doanh tiền quân phó bộ thự, Bân làm Đô giám. Quân Tống hạ được tất cả quận huyện ở Hạp Trung, chư tướng đều muốn đồ thành để thỏa dục vọng, Bân một mình lệnh cho cấm chỉ bộ hạ, đi đến đâu cũng khiến nơi ấy vui vẻ khuất phục. Thái Tổ nghe được, giáng chiếu khen ngợi. Quân Tống chiếm xong 2 Xuyên, bọn Vương Toàn Bân đêm ngày ăn chơi, không quản tướng sĩ, nên bộ hạ cướp bóc không thôi, khiến người Thục khổ sở. Bân nhiều lần xin rút quân, bọn Toàn Bân không nghe. Ít lâu sau bọn Toàn Sư Hùng nổi loạn, tập hợp 10 vạn người, Bân lại cùng Lưu Quang Nghĩa phá nghĩa quân ở Tân Phồn, dập tắt cuộc nổi dậy. Bấy giờ chư tướng phần nhiều chiếm đoạt trai gái ngọc lụa, hành lý của Bân chỉ có tranh sách, khăn áo mà thôi. Khi trở về, Thái Tổ nắm hết tình hình, đem bọn Toàn Bân ra định tội, nói rằng Bân thanh (trong sạch) giới (chánh trực) liêm (liêm khiết) cẩn (cẩn thận), cho thụ chức Tuyên huy nam viện sứ, Nghĩa Thành quân Tiết độ sứ. Bân vào gặp, nói: “Tướng sĩ chinh tây đều chịu tội, một mình thần được thưởng, sợ không lấy làm sự khích lệ cho họ.” Thái Tổ nói: “Khanh có công lao, lại không khoe khoang, ví có lỗi nhỏ, bọn (Vương) Nhân Thiệm há tiếc lời ư? Trừng phạt và khích lệ là phép thường của nước, không thể từ chối.” Thì ra Vương Nhân Thiệm là đối tượng đầu tiên bị Thái Tổ chất vấn trong các tướng chinh tây. Nhân Thiệm vạch tội mọi người nhằm giấu diếm tội trạng của mình, riêng nói: “Thanh (trong sạch) khiêm (khiêm nhường) úy (kính sợ) cẩn (cẩn thận), người không phụ trách nhiệm bệ hạ giao phó, chỉ có một mình Tào Bân vậy.”

Năm thứ 6 (968), triều đình sai Lý Kế Huân, Đảng Tiến soái quân đánh Bắc Hán, mệnh Bân làm Tiền quân đô giám; đôi bên giao chiến ở sông Đỗng Qua, quân Tống chém hơn 2000 thủ cấp, bắt sống rất nhiều. Năm Khai Bảo thứ 2 (969), Thái Tổ chuẩn bị thân chinh Bắc Hán, lại mệnh Bân làm Tiền quân đô giám, soái quân đi trước, đến hang Đoàn Bách, thu hàng tướng địch Trần Đình Sơn. Bân lại giao chiến ở phía nam thành Thái Nguyên, áp sát cây cầu ở hào nước, đoạt hơn ngàn con ngựa. Khi Thái Tổ đến, Bân đã lập doanh trại ở 4 mặt, tự mình giữ mặt bắc. Năm thứ 6 (973), Bân được tiến làm Kiểm hiệu thái phó.

Năm thứ 7 (974), nước Tống sắp đánh Nam Đường. Tháng 9 ÂL, Bân phụng chiếu cùng Lý Hán Quỳnh, Điền Khâm Tộ đi trước đến Kinh Nam phát động chiến hạm, Phan Mỹ soái bộ binh đi sau. Tháng 10 ÂL, có chiếu lấy Bân làm Thăng Châu tây nam lộ hành doanh mã bộ quân chiến trạo đô bộ thự, chia binh từ Kinh Nam xuôi dòng đông tiến, phá trại hạp khẩu, tiến chiếm Trì Châu, liên tiếp chiếm 2 huyện Đương Đồ, Vu Hồ, trú quân ở Thái Thạch ki. Tháng 11 ÂL, Bân làm cầu nổi, giăng ngang Trường Giang để vượt sông. Tháng 12 ÂL, Bân đại phá quan Đường ở cù lao Bạch Lộ.

Tháng giêng ÂL năm thứ 8 (975), Bân lại phá quân Đường ở cảng Tân Lâm. Tháng 2 ÂL, quân Tống tiến đến Tần Hoài, hơn 10 vạn thủy lục quân Đường bày trận dưới thành Kim Lăng; quân Tống đại thắng, bắt và giết hàng vạn quân Đường. Khi cầu nổi hoàn thành, quân Đường đến ngăn chặn, Bân phá địch ở cù lao Bạch Lộ. Từ tháng 3 ÂL đến tháng 8 ÂL, Bân liên tiếp phá địch, tiến chiếm Nhuận Châu. Quân Tống vây chặt Kim Lăng, triều đình Nam Đường dần cảm thấy tuyệt vọng.

Trong quá trình bao vây, Bân nhiều lần trì hoãn tấn công, mong Nam Đường đầu hàng. Tháng 11 ÂL, Bân sai người khuyên dụ rằng: “Tình thế như vầy, đáng tiếc cho dân chúng trong thành, nếu chịu đầu hàng, là bậc thượng trong kế sách đấy.” Thành sắp hạ được, Bân xưng bệnh không coi việc, chư tướng đều đến hỏi thăm. Bân nói: “Bệnh của tôi chẳng có thuốc nào chữa khỏi, chỉ cần các anh thề rằng, vào ngày chiếm được thành, không giết bừa một người nào, thì sẽ tự khỏi.” Chư tướng nhận lời, rồi đốt nhang phát lời thề. Hôm sau, Bân khỏi bệnh. Hôm sau nữa, quân Tống chiếm được thành. Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục cùng quan viên đến cửa quân nhận tội, Bân an ủi họ, đãi theo lễ dành cho khách, mời Hậu Chủ vào cung chuẩn bị hành trang. Bân đem theo vài kỵ binh đợi ở ngoài cung, bộ hạ ngầm hỏi: “Dục vào cung có gì bất trắc hay không?” Bân cười đáp: “Dục vốn hèn nhát không quyết đoán, đã đầu hàng, thì không thể tự sát nữa.” Vì vậy, vua tôi, quan dân Nam Đường đều được bảo toàn. Từ khi Bân xuất quân cho đến khi khải hoàn, binh sĩ sợ phục, không làm sằng bậy. Đến khi vào chầu, Bân xưng “phụng sắc đến Giang Nam làm việc rồi trở về”.

Ban đầu, Bân được nắm quyền chỉ huy, Thái Tổ nói: “Đợi bắt được Lý Dục, sẽ lấy khanh làm Sứ tướng .” Lúc này Phó soái Phan Mỹ sắp sửa chúc mừng, Bân nói: “Không đâu, hành động lần này, dựa vào thiên uy, tuân theo chiến lược, nên mới thành công, tôi có công gì, hướng hồ Sứ tướng là cực phẩm đấy!” Mỹ hỏi: “Sao vậy?” Bân đáp: “Thái Nguyên còn chưa dẹp được.” Khi trở về, hiến tù binh, Thái Tổ nói: “Vốn thụ khanh làm Sứ tướng, nhưng Lưu Kế Nguyên chưa bắt được, hãy đợi chút nữa.” Nghe nói như vậy, Mỹ nhìn trộm Bân mà cười. Thái Tổ phát hiện, gặn hỏi vì sao, Mỹ không dám giấu, thành thật trả lời. Thái Tổ cũng cả cười, rồi ban cho Bân 20,000 tiền. Bân từ chối: “Đời người hà tất làm Sứ tướng, quan tốt cũng không cần nhiều tiền. Ít lâu sau, Bân được bái làm Xu mật sứ, Kiểm hiệu thái úy, Trung Vũ quân Tiết độ sứ.

Thời Thái Tông

Tống Thái Tông nối ngôi (976), gia Bân làm Đồng bình chương sự. Triều đình bàn việc đánh Bắc Hán, Thái Tông triệu Bân hỏi: “Chu Thế Tông với Thái Tổ đều thân chinh, sao không thể chiến thắng?” Bân nói: “Thời Thế Tông, Sử Ngạn Siêu thua ở Thạch Lĩnh quan, lòng người rối loạn, nên lui quân. Thái Tổ đóng quân ở nơi có cỏ ngọt, gặp mưa giữa mùa hạ, binh sĩ phần nhiều mắc bệnh, nên phải đình chỉ.” Thái Tông hỏi: “Nay ta muốn bắc chinh, khanh thấy thế nào?” Bân nói: “Đem quân đội tinh nhuệ của nước nhà, nhổ cái lũy cô độc Thái Nguyên, như bẻ khúc củi khô vậy, sao lại không thể!?” Vì vậy Thái Tông quyết định ra quân. Năm thứ 3 (978), Bân được tiến làm Kiểm hiệu thái sư, tòng chinh Bắc Hán, gia kiêm Thị Trung.

Tháng giêng ÂL năm thứ 8 (983), Bân bị Di Đức Siêu vu cáo, chịu bãi làm Thiên Bình quân Tiết độ sứ. Tháng 4 ÂL, việc của Đức Siêu bại lộ, Thái Tông biết Bân bị gièm, cho tiến phong Lỗ quốc công, đãi ngộ càng hậu.

Tháng giêng năm Ung Hi thứ 3 (986), triều đình giáng chiếu cho Bân làm U Châu đạo hành doanh tiền quân mã bộ thủy lục đô bộ thự, Thôi Ngạn Tiến làm phó, cùng bọn chủ tướng Mễ Tín, Điền Trọng Tiến, Phan Mỹ bắc phạt, chia đường tiến đánh nước Liêu. Tháng 3 ÂL, Bân đánh bại quân Liêu ở phía nam Cố An, chiếm được thành ấy. Trước đó, chư tướng vào từ biệt, Thái Tông nói với Bân rằng: “Quân của Phan Mỹ, chỉ nhận lệnh đi trước đến Vân, Ứng, bọn khanh đem hơn 10 vạn người đánh tiếng lấy U Châu, hãy từ tốn chậm lại, không được tham lợi. Họ nghe đại binh chí, ắt dốc hết người cứu U Châu, không nhàn rỗi giúp Sơn Hậu nữa.” Bấy giờ các bộ tướng của Bân nghe tin các cánh quân của Phan Mỹ và Điền Trọng Tiến liên tiếp thắng lợi, cho rằng mình nắm trọng binh mà không thể lập công, tỏ ra bất mãn. Bân không thể khống chế, bèn chở theo 50 ngày lương thực đi đánh Trác Châu. Tướng Liêu là bọn Da Luật Hưu Ca đem khinh binh quấy nhiễu, quân Tống vừa đi vừa đánh, mất 4 ngày mới đến Trác Châu. Quân Tống đánh bại quân Liêu ở phía đông Trác Châu, thừa thắng tấn công cửa bắc, hôm sau thì chiếm được thành. Bân sai bộ tướng là bọn Lý Kế Tuyên đem khinh kỵ vượt sông Trác dò xét, quân Liêu kéo đến, bị Kế Tuyên đánh bại. Trời đang oi bức, quân Tống mệt mỏi, chỗ lương thảo chở theo không đến, Bân bèn bỏ thành, muốn quay về Hùng Châu để tìm cung ứng. Quân Tống rút lui, không còn hàng ngũ, trong khi bọn Hưu Ca đuổi nà. Tháng 5 ÂL, quân Liêu bắt kịp ở Kỳ Câu quan, quân Tống đại bại. Bân thu tàn quân, trong đêm vượt sông Cự Mã, lập trại ở bờ nam Dịch Thủy. Trong lúc vượt sông, người ngựa giày xéo, chết không đếm xuể. Nghe tin thất bại, Thái Tông lệnh cho chư tướng chia nhau đồn trú biên thành, triệu Bân cùng Thôi Ngạn Tiến, Mễ Tín vào triều.

Bọn Bân đến, có chiếu chịu xét hỏi ở Thượng thư tỉnh, lệnh cho bọn Hàn Lâm học sĩ Giả Hoàng Trung hội thẩm. Bọn Bân nhận tội trái lời hoàng đế dẫn đến thua trận, Bân bị trách thụ Hữu Kiêu vệ thượng tướng quân. Năm thứ 4 (987), Bân được khởi làm Thị trung, Vũ Ninh quân Tiết độ sứ. Năm Thuần Hóa thứ 5 (994), Bân được dời làm Bình Lư quân Tiết độ sứ.

Hậu sự

Tống Chân Tông nối ngôi (997), Bân được khôi phục làm Kiểm hiệu thái sư, Đồng bình chương sự. Mấy tháng sau, Bân được triệu bái làm Xu mật sứ. Năm Hàm Bình thứ 2 (999), Bân bệnh, Chân Tông đến thăm, tự tay điều chế thuốc cho ông, còn ban 4 vạn lạng bạc. Đế hỏi hậu sự, Bân nói: “Thần không có chuyện gì để nói. Hai con của thần, tài năng có thể dùng, thần nếu cử người trong nhà, bọn chúng đều có thể làm tướng.” Đế hỏi họ hơn kém, Bân đáp: “Xán không bằng Vĩ.”

Tháng 6 ÂL, Bân mất, hưởng thọ 69 tuổi. Chân Tông đến khóc viếng, gặp tể tướng nhắc đến Bân, ắt rơi nước mắt. Bân được tặng Trung thư lệnh, truy phong Tế Dương quận vương, thụy Vũ Huệ; vợ là Cao thị được tặng hàm Hàn Quốc phu nhân; thân nhân, môn khách, bộ hạ hơn 10 người được làm quan. Tháng 8 ÂL, triều đình giáng chiếu cho Bân cùng Triệu Phổ được phối thờ trong miếu của Thái Tổ, về sau tặng Bân làm Thái sư, Thượng thư lệnh, thêm vài lần đổi vương tước: Tế Dương, Ký, Lỗ. Nhờ cháu nội là Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, Tào Vân được Tống Nhân Tông truy tặng làm Ngụy vương, Bân được đổi làm Hàn vương.

Năm Bảo Khánh thứ 2 (1226), Bân là một trong 24 công thần được Tống Lý Tông cho vẽ tranh để treo ở gác Chiêu Huân.

Năm Hồng Vũ thứ 21 (1388) đời Minh, Bân là một trong 37 công thần được thờ ở miếu đế vương các triều đại. Nhà Thanh cũng xếp Bân vào nhóm 41 công thần được thờ ở miếu này.

Tính cách

Bân tính nhân từ, cung kính, ôn hòa và đôn hậu. Ở triều đình, Bân chưa từng nói lời trái ý hoàng đế, cũng chưa từng nhắc đến lỗi lầm của ai. Bân tham gia đánh chiếm 2 nước, không lấy một chút gì. Chức vụ của Bân kiêm thừa tướng văn, đại tướng võ, nhưng không tỏ oai thế để khác người. Giữa đường gặp sĩ đại phu, Bân ắt dắt xe để tránh đi. Bân không gọi tên quan viên dưới quyền; mỗi khi họ đến trình bày công việc, ông ắt chỉnh mũ áo rồi mới gặp. Nhận được bổng lộc, Bân cấp cho họ hàng, không để dư thừa. Sau khi trở về từ đất Thục, Thái Tổ gặp dịp hỏi quan lại tốt xấu, Bân đáp: “Ngoài việc quân ra, thần chẳng hỏi đến.” Thái Tổ gặn hỏi, Bân chỉ tiến cử Tùy quân chuyển vận sứ Thẩm Luân thanh liêm, cẩn thận có thể dùng. Thời Bân được làm Vũ Ninh quân Tiết độ sứ, có quan viên phạm tội, đã kết án, hơn năm sau mới phạt đòn, người ta hỏi tại sao, ông đáp: “Tôi nghe nói người này mới cưới vợ, nếu phạt đòn anh ta, gia đình chồng ắt cho rằng người đàn bà này mang đến điềm chẳng lành, mà sớm tối hành hạ, khiến cô ta không thể sống được. Tôi bởi thế trì hoãn việc này, nhưng pháp luật cũng chưa từng cong vẹo.” Sau khi bắc chinh thất bại, Triệu Xương Ngôn dâng biểu đề nghị xử phạt theo quân pháp. Đến khi Xương Ngôn từ Duyên Châu quay về, bị đàn hặc, không được vào gặp Chân Tông. Bân đang giữ chức Xu mật sứ, thỉnh cầu hoàng đế, nên ông ta mới được vào chầu.

Hậu duệ

Bân có 7 con trai: Xán, Hu, Vĩ, Huyền, Kỷ, Tuần, Tông.

  • Tào Xán, Tào Vĩ, Tào Tông có truyện riêng. :* Xán có con trai là Tào Nghi, được làm đến Diệu Châu quan sát sứ. Tông có con trai là Tào Toàn, được làm đến Gia Châu phòng ngự sứ.
  • Tào Hu cưới con gái của Tần vương vương Triệu Đình Mỹ là Hưng Bình quận chúa, được làm đến Chiêu tuyên sứ.
  • Tào Huyền được làm đến Tả tàng khố phó sứ.
  • Tào Kỷ được làm đến Thượng thư Ngu bộ Viên ngoại lang. :* Kỷ có con gái là Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, nên được truy tặng làm Ngô vương, thụy là An Hi. Kỷ còn có 2 con trai là Dật, Phó. Cố sự Tào Dật được chép ở Ngoại thích truyện; Tào Phó là anh của hoàng hậu, được làm đến Vinh Châu thứ sử, thụy là Cung Hoài.
  • Tào Tuần được làm đến Đông thượng các môn sứ.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tào Bân** (chữ Hán: 曹彬, 931 – 999) là tướng lãnh nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Quá trình thăng tiến Bân tự Quốc Hoa, người huyện Linh Thọ, phủ Chân Định
**Táo Phú Sĩ** hay **Táo Fuji** là một giống táo đường (táo đỏ) lai được phát hiện và nhân rộng bởi các chuyên gia cây trồng tại Trạm nghiên cứu Tohoku (農林省園芸試験場東北支場: Nông lâm tỉnh,
**Tào Chân** (chữ Hán:曹真; ? -231), biểu tự **Tử Đan** (子丹), là một vị tướng của triều đình Tào Ngụy trong thời Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc. Ông có công rất lớn trong
nhỏ|phải|Tranh sơn mài về những quả táo trên dĩa nhỏ|phải|Họa phẩm về trái táo **Biểu tượng quả táo** (ở đây là quả táo tây hay quả bôm) xuất hiện trong nhiều truyền thống tôn giáo,
**Tào Sảng** (chữ Hán: 曹爽, ? - 9 tháng 2, 249), biểu tự **Chiêu Bá** (昭伯), là một nhà quân sự và nhà chính trị quan trọng của triều đại Tào Ngụy trong thời kỳ
Những công dụng đặc biệt của Combo độc quyền này: Dưỡng da trắng bằng chiết xuất phôi noãn thực vật là tế bào nuôi dưỡng nhuỵ hoa. Ngăn mọi phát triển của sắc tố melanin,
**Tảo chùm đen**, **tảo bàn chải đen** hay tên không chính xác là **rêu chùm đen**, danh pháp **Audouinella**, là một chi phổ biến của tảo đỏ, môi trường sinh ống của các loài thuộc
Bạn đã hiểu làn da của mình đến đâu ?? Cho da ăn đêm thì sao ạ ❓❓ Ban ngày da tiếp xúc môi trường làm việc nhiều bụi bẩn , vi khuẩn ... Ban
**Chi Táo** (danh pháp khoa học: **_Ziziphus_**) là một chi của khoảng 40 loài cây bụi và cân thân gỗ nhỏ có gai trong họ Táo (_Rhamnaceae_), phân bổ trong các khu vực ôn đới
**Tào Phương** (chữ Hán: 曹芳; 232–274; cai trị: 239 – 254) tên tự là **Lan Khanh** (蘭卿), là hoàng đế thứ ba của nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trước
**Tào Ngụy Minh Đế** (chữ Hán: 曹魏明帝; 204 - 22 tháng 1, 239), tên thật **Tào Duệ** (), tự **Nguyên Trọng** (元仲), là vị Hoàng đế thứ hai của triều Tào Ngụy trong lịch sử
nhỏ|Biểu tượng (logo) của Thiền phái Tào Khê, ba chấm tròn tượng trưng cho [[Tam Bảo.]] **Tào Khê tông** (zh. 曹溪宗 c_aóxī zōng_, ko. _chogye chong_, ja. _sōkei-shū_, en. _Jogye Order_), tên chính thức là
**Tào Phi** (chữ Hán: 曹丕; 187 - 29 tháng 6, năm 226), biểu tự **Tử Hoàn** (子桓), là vị Hoàng đế khai quốc của Tào Ngụy, một trong 3 nước thời kì Tam Quốc trong
**Táo tây**, còn gọi là **bôm** (phiên âm từ tiếng Pháp: _pomme_), là một loại quả ăn được từ **cây táo tây** (_Malus domestica_). Táo tây được trồng trên khắp thế giới và là loài
**Táo tàu** hay là **đại táo**, **hồng táo** (_táo đỏ_), **toan táo** (_táo chua_) (tiếng Trung giản thể: 枣, phồn thể: 棗 (táo); 大枣, 红枣, 酸枣), (tiếng Triều Tiên: **대추**), tiếng Nhật: 棗 **natsume**) (danh
**Rừng tảo bẹ **là các khu vực dưới nước có mật độ tảo bẹ dày đặc. Chúng được công nhận là một trong những hệ sinh thái phong phú và năng động nhất trên Trái
**Tào Thực** (chữ Hán: 曹植, 192 - 27 tháng 12, 232), tự **Tử Kiến** (子建), còn được gọi là **Đông A vương** (東阿王), là một hoàng thân của Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch
**Tào Mao** (chữ Hán: 曹髦, bính âm: Cao Mao; 15/11/241- 2/6/260) hay **Ngụy Thiếu Đế,** tự **Ngạn Sĩ** (彥士), hay còn được biết đến với tước hiệu **Cao Quý Hương công** (高貴鄉公) là vị hoàng
**Tào Bá Dương** (chữ Hán: 曹伯陽; trị vì: 501 TCN-487 TCN), tên thật là **Cơ Bá Dương** (姬伯阳), là vị vua thứ 26 và là vua cuối cùng của nước Tào – chư hầu nhà
nhỏ|phải|Một [[bữa ăn sáng truyền thống tại một Ryokan ở Kyoto. Các món ăn bao gồm thịt cá thu nướng, _dashimaki_ (trứng tráng Nhật Bản, ở đây theo phong cách Kansai), cơm, đậu phụ trong
**Tào Kiến Minh** (; sinh ngày 24 tháng 9 năm 1955) là giáo sư, thạc sĩ luật học, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành
**Tào quốc** (phồn thể: 曹國; giản thể: 曹国) là một nước chư hầu nhà Chu tồn tại vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ nước Tào hiện ở khoảng vùng Định
**Tào Thuần** (chữ Hán: 曹纯, bính âm: Cao Chun; ?-210) là một viên tướng lĩnh chỉ huy lực lượng kỵ binh dưới trướng của lãnh chúa Tào Tháo trong thời đại nhà Hán thời kỳ
**Tào Hưu** (chữ Hán: 曹休; bính âm: Cao Xiu; 170-228) tự **Văn Liệt** là một tướng lĩnh nhà Ngụy phục vụ cho Thừa tướng Tào Tháo trong thời nhà Hán của lịch sử Trung Quốc,
**Tảo** là một nhóm nguyên sinh vật lớn và đa dạng, bao gồm các sinh vật thông thường là tự dưỡng, gồm một hay nhiều tế bào có cấu tạo đơn giản, có màu khác
**_Liên hợp Tảo báo_** (; nghĩa là "Báo Liên hợp Buổi sáng") hoặc ngắn gọn hơn là '**_Tảo báo_**' ("Báo Buổi sáng") hoặc tên đầy đủ **_Nam Dương - Tinh Châu Liên hợp Tảo báo_**
nhỏ|Màu sắc của giấm táo **Giấm táo** (tiếng Anh: ****) được tinh chế từ táo tươi, là một phương pháp giảm cân được lưu truyền từ xưa trong dân gian tại các nước Tây Âu.
**Tào Sơn Bản Tịch** (zh. _cáoshān běnjì_ 曹山本寂, ja. _sōzan honjaku_), 840-901, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ đắc pháp của Động Sơn Lương Giới và cùng với thầy, sư thành lập tông
**Tào Chiêu công** (chữ Hán: 曹昭公; trị vì: 661 TCN-653 TCN), tên thật là **Cơ Ban** (姬班), là vị vua thứ 15 của nước Tào – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Tào Thục Mẫn** (tiếng Trung giản thể: 曹淑敏, bính âm Hán ngữ: _Cáo Shūmǐn_, sinh tháng 7 năm 1966, người Hán) là nữ nhà khoa học điện tử viễn thông, chính trị gia nước Cộng
**_Chondrus crispus_** - thường gọi là **tảo Ireland** hoặc **carrageen** (Tiếng Ireland _carraigín_, "hòn đá nhỏ") - là một loại tảo đỏ mọc trên bề mặt đá tại các bờ biển Đại Tây Dương phần
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Tảo xoắn** (tên khoa học là _Spirulina platensis_) là một loại Cyanobacteria (Vi khuẩn lam) dạng sợi xoắn màu xanh lục, chỉ có thể quan sát thấy hình xoắn sợi do nhiều tế bào đơn
**Antonovka,** **Антоновка,** hay **Antonówka** là các giống táo có vụ mùa vào cuối mùa thu đầu mùa đông, các giống táo này có một hương vị acid mạnh, địa bàn phân bố phổ biến ở
**Tào Sơn Huệ Hà** (zh. 曹山慧霞, ja. _Sōzan Eka_, ?-?) là vị Thiền sư Trung Quốc dưới thời Ngũ đại Thập quốc, đời thứ 3 Tào Động tông. Sư là đệ tử nối pháp của
**Quan chế phong kiến Nhật Bản** tính từ thời kỳ Nara đến năm 1866 khi Thiên hoàng Minh Trị tiến hành Duy tân bãi bỏ hoặc thay đổi hầu hết quan chế cũ. ## Lịch
LAMI STORE CHỈ BÁN CÁC DÒNG NƯỚC HOA CHÍNH HÃNG NHẬP TỪ NHÀ PHÂN PHỐI LỚN NHẤT MỸ VÀ CANADA. CÓ ĐẦY ĐỦ BILL NHẬP HÀNG NÊN MONG QUÝ KHÁCH KHÔNG SO SÁNH GIÁ VỚI
**Táo mèo** (danh pháp hai phần: **_Docynia indica_**), còn gọi là thanh trà tại Việt Nam, là một loài trong chi Táo mèo (_Docynia_) của họ Hoa hồng (Rosaceae). ## Đặc điểm Cây gỗ bán
**Tào Hoán** (chữ Hán: 曹奐; 246–302) hay **Tào Ngụy Nguyên Đế**, là vị vua cuối cùng của nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đầu năm 266 dương lịch, khi ông
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
**Tào Nhân** (chữ Hán: 曹仁; 168-223), biểu tự **Tử Hiếu** (子孝), là công thần khai quốc nước Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tào Nhân người huyện Tiếu,
**Đường Bân** (chữ Hán: 唐彬, 235 - 294), tự **Nho Tông**, là quan viên, tướng lĩnh Tào Ngụy, Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Tào Ngụy Đường Bân là người huyện Trâu,
**Trương Thừa** (; ? – ?), tự **Công Tiên** (公先), là quan viên dưới quyền quân phiệt Viên Thuật và Tào Tháo thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Trương Thừa
**Tảo lục** là một nhóm lớn các loài tảo, mà thực vật có phôi (Embryophyta) (hay thực vật bậc cao) đã phát sinh ra từ đó. Như vậy, chúng tạo nên một nhóm cận ngành,
- Thương hiệu: Donna Karan- Xuất xứ: Thuỵ Sĩ- Năm phát hành: 2004- Nhóm hương: Táo xanh, Dưa leo, Bưởi, Hoa linh lan- Phong cách: Tươi mát, Quyến rũ, Tinh tếHương đầu: Quả bưởi, Dưa
**Tào Lâm** (chữ Hán: 曹霖, mất ngày 5 tháng 2 năm 251), là một hoàng tử Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của Trung Quốc. Ông là con trai của Tào Phi, hoàng đế
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Tảo đỏ** là những sinh vật quang tự dưỡng thuộc ngành Rhodophyta. Phần lớn các loài rong đều thuộc nhóm này. Các thành viên trong ngành có đặc điểm chung là màu đỏ tươi hoặc
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**Táo dại châu Âu** (danh pháp hai phần: **_Malus sylvestris_**) là một loài thực vật thuộc chi Hải đường, họ Hoa hồng. Loài này được Mill. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1768. Táo