✨Siêu hình học

Siêu hình học

thumb|alt=Một bản in cổ (Incunabulum) hiển thị phần mở đầu của tác phẩm Siêu hình học của Aristotle ở trung tâm bức tranh. Phía trên là một nhóm người trong trang phục rực rỡ màu sắc, và phía dưới là các loài động vật trên thảm cỏ.|Trang đầu của tác phẩm [[Siêu hình học (Aristotle)|Siêu hình học của Aristoteles, một trong những văn bản nền tảng của lĩnh vực này.]]

Siêu hình học, còn gọi là hình nhi thượng học, là một nhánh của triết học nghiên cứu các nguyên lý căn bản của thực tại. Theo truyền thống, siêu hình học được coi là lĩnh vực nghiên cứu các đặc điểm độc lập với ý thức con người trong thế giới. Tuy nhiên, cũng có học phái xem siêu hình học như một cuộc truy vấn về khuôn khổ khái niệm của nhận thức con người, tức là cách chúng ta lĩnh hội và hòa hợp với bản thể của thế giới. Một số triết gia, bao gồm Aristoteles, đã gọi siêu hình học là triết học tiên khởi nhằm nhấn mạnh rằng nó cơ bản hơn so với các hình thức nghiên cứu triết học khác.

Siêu hình học bao gồm nhiều chủ đề mang tính trừu tượng và phổ quát. Nó tìm hiểu bản chất của sự tồn tại, những đặc điểm mà mọi thực thể đều chia sẻ, cũng như cách phân loại chúng vào các phạm trù khác nhau của hữu thể. Một sự phân chia quan trọng là giữa tính cụ thể và tính phổ quát. Tính cụ thể đề cập đến những thực thể đơn lẻ, chẳng hạn như một quả táo cụ thể. Ngược lại, tính phổ quát chỉ các thuộc tính chung mà nhiều thực thể cùng chia sẻ, như sắc đỏ của quả táo. Siêu hình học thể thức là sự tìm hiểu ý nghĩa của những khái niệm như cái khả hữu và cái tất yếu. Không chỉ dừng lại ở đó, siêu hình học còn mở rộng đến việc chiêm nghiệm không gian, thời gian, sự biến đổi và mối liên hệ giữa chúng với nhân quả và các định luật tự nhiên. Những vấn đề khác như mối quan hệ giữa tâm thức và vật chất, khả năng tiên định của vũ trụ, hay sự tồn tại của ý chí tự do cũng là những nội dung trọng tâm trong lĩnh vực này.

Các nhà siêu hình học vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để tiến hành nghiên cứu. Từ xưa, các nhà siêu hình học chủ yếu dựa vào trực giác lý tính và suy luận trừu tượng, nhưng trong thời gian gần đây đã kết hợp thêm các phương pháp thực nghiệm liên quan đến các lý thuyết khoa học. Do tính chất trừu tượng của đối tượng nghiên cứu, siêu hình học thường đối mặt với sự hoài nghi về độ tin cậy của phương pháp, cũng như ý nghĩa thực tiễn của các học thuyết mà nó đưa ra. Dẫu vậy, siêu hình học vẫn đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu, nơi các khái niệm và giả định siêu hình thường xuyên được sử dụng một cách mặc nhiên không qua kiểm chứng.

Căn nguyên của siêu hình học bắt nguồn từ những suy tư sơ khởi về vũ trụ trong thời cổ đại. Những dòng tư tưởng này xuất hiện trong bộ kinh điển Áo nghĩa thư của Ấn Độ cổ đại, tư tưởng Đạo gia trong Trung Quốc cổ đại và Triết học tiền Socrates ở Hy Lạp cổ đại. Vào thời kỳ Trung Cổ ở châu Âu, các cuộc thảo luận về bản chất của cái phổ quát chịu ảnh hưởng sâu sắc từ triết học của Platon và Aristoteles. Đến thời kỳ cận đại, nhiều hệ thống siêu hình học toàn diện xuất hiện, trong đó nhiều hệ thống chấp nhận quan điểm duy tâm. Thế kỷ 20 chứng kiến sự phê phán mạnh mẽ đối với siêu hình học truyền thống, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm, dẫn đến sự hình thành các cách tiếp cận mới trong nghiên cứu siêu hình học.

Định nghĩa

Siêu hình học là ngành nghiên cứu về những đặc điểm tổng quát nhất của thực tại, bao gồm tồn tại, sự vật và các thuộc tính của chúng, khả thể và tất yếu, không gian và thời gian, sự biến đổi, nhân quả và mối quan hệ giữa tâm thức và vật chất. Đây được coi là một trong những ngành triết học cổ xưa nhất của nhân loại.

Bản chất chính xác của siêu hình học vẫn là chủ đề gây tranh cãi và cách định nghĩa nó đã biến đổi qua từng giai đoạn lịch sử. Một số cách tiếp cận xem siêu hình học như một lĩnh vực thống nhất, đưa ra các định nghĩa khái quát như "nghiên cứu những câu hỏi nền tảng về bản chất của thực tại" hoặc "truy vấn bản chất của mọi sự vật". Trong khi đó, các cách tiếp cận khác tỏ ra hoài nghi về sự tồn tại của những đặc điểm chung giữa các lĩnh vực khác nhau của siêu hình học. Thay vào đó, họ đưa ra cách định nghĩa chi tiết hơn bằng cách liệt kê các chủ đề chính mà các nhà siêu hình học nghiên cứu. Một số định nghĩa mang tính mô tả, tìm cách phản ánh chính xác những gì các nhà siêu hình học thực hiện; trong khi các định nghĩa khác lại mang tính quy phạm, đề xuất những gì các nhà siêu hình học nên làm.

Hai định nghĩa có sức ảnh hưởng lớn trong triết học cổ đại và trung cổ mô tả siêu hình học như khoa học về các nguyên nhân đầu tiên và là nghiên cứu về "hữu thể với tư cách là hữu thể", tức là tìm hiểu những điểm chung cốt lõi của mọi thực thể và sự phân loại chúng vào các phạm trù nền tảng của tồn tại. Bước sang thời kỳ hiện đại, phạm vi siêu hình học được mở rộng đáng kể, bao gồm những vấn đề như sự phân biệt giữa tâm trí và thân thể hay câu hỏi về tự do ý chí. Một số triết gia, tiếp nối tư tưởng của Aristoteles, gọi siêu hình học là "triết học tiên khởi", nhấn mạnh rằng đây là lĩnh vực nghiên cứu cơ bản nhất, đóng vai trò nền tảng cho mọi nhánh triết học khác theo một cách nào đó.

thumb|alt=Tranh sơn dầu miêu tả Kant nhìn từ phía trước, nền tối, trong tư thế ngồi tựa vào bàn với bút và mực, khoác trang phục trang trọng màu nâu.|[[Immanuel Kant quan niệm siêu hình học từ góc độ triết học phê phán như một ngành nghiên cứu các nguyên lý làm nền tảng cho mọi tư duy và trải nghiệm của con người.]]

Siêu hình học, theo truyền thống, được hiểu là sự khảo cứu các đặc điểm của thực tại độc lập với tâm trí. Tuy nhiên, từ triết học phê phán của Immanuel Kant, một luồng quan điểm thay thế đã nổi lên, nhấn mạnh vào các khung khái niệm thay vì thực tại ngoại tại. Kant phân biệt rõ giữa siêu hình học siêu việt, nhằm mô tả các đặc tính khách quan của thực tại vượt khỏi giới hạn của kinh nghiệm giác quan, và siêu hình học phê phán, vốn chú trọng đến những nguyên lý và khía cạnh làm nền tảng cho mọi tư duy và trải nghiệm của con người. Triết gia P. F. Strawson tiếp nối dòng tư duy này, đào sâu vai trò của khung khái niệm trong siêu hình học, bằng cách phân chia thành hai nhánh: siêu hình học mô tả và siêu hình học cải cách. Siêu hình học mô tả tìm cách hệ thống hóa các khung khái niệm vốn được sử dụng để lý giải thế giới, trong khi siêu hình học cải cách lại hướng đến việc kiến tạo những khung khái niệm mới, mang tính hiệu chỉnh và cải tiến hơn.

Siêu hình học khác với các ngành khoa học riêng lẻ bởi nó nghiên cứu các khía cạnh tổng quát và trừu tượng nhất của thực tại. Ngược lại, các ngành khoa học cụ thể tập trung vào những khía cạnh cụ thể và hữu hình hơn, giới hạn trong những loại thực thể nhất định, chẳng hạn như vật chất trong vật lý, sinh thể trong sinh học, hay văn hóa trong nhân loại học. Tuy vậy, vẫn có tranh luận về việc liệu sự khác biệt này là một ranh giới tuyệt đối hay chỉ là một phổ liên tục.

Từ nguyên

Từ siêu hình học trong tiếng Việt bắt nguồn từ cách đọc Hán-Việt của ba chữ 超形學.

Từ metaphysics trong tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại với hai từ metá (μετά, nghĩa là 'sau', 'vượt trên', hoặc 'bên ngoài') và phusiká (φυσικά), viết tắt của cụm ta metá ta phusiká, có nghĩa là "những gì đến sau vật lý." Cụm từ này thường được hiểu theo nghĩa rằng siêu hình học nghiên cứu những vấn đề, bởi tính khái quát và toàn diện của chúng, nằm ngoài phạm vi của vật lý học với trọng tâm là quan sát thực nghiệm. Thuật ngữ này sau đó được du nhập vào tiếng Anh qua tiếng Latinh, metaphysica.

Cuớc chú

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|alt=Một bản in cổ (Incunabulum) hiển thị phần mở đầu của tác phẩm Siêu hình học của Aristotle ở trung tâm bức tranh. Phía trên là một nhóm người trong trang phục rực rỡ màu
**_Siêu hình học_** (tiếng Hy Lạp: μετὰ ικά; Latin: _Metaphysica_ , lit: "vươn ra ngoài vật lý") là một trong những tác phẩm chủ yếu của Aristotle và là tác phẩm lớn đầu tiên của
Trong siêu hình học, sự **mở rộng** biểu thị cho cả ý nghĩa 'kéo dài' (tiếng Latin: _extensio_) cũng như 'chiếm không gian', và gần đây nhất, nghĩa là truyền bá nhận thức tinh thần
Dẫn Nhập Siêu Hình Học không nhằm giới thiệu hay điểm lại các hệ thống siêu hình học trong tất cả sự đa phức của nó, mà là cố gắng lắng nghe, tìm lại tính
Tác Giả Lm. Nguyễn Quốc Lâm NXB Tôn Giáo Loại bìa Bìa mềm Kích thước 13 x 20.5 cm Số trang 350 Dẫn Nhập Siêu Hình Học không nhằm giới thiệu hay điểm lại các
phải|nhỏ|395x395px|
[[Carl Jung|Carl jung
]] **Tâm lý học phân tích**, hay **phân tích tâm lý Jung** là tên mà Carl Jung, một nhà tâm thần học người Thụy Sĩ, đã đặt cho "khoa
Trong hình học tính toán, **lưới ε** là một khái niệm về việc xấp xỉ một tập hợp điểm cho trước bằng một tập hợp nhỏ hơn. ## Định nghĩa phải|nhỏ|Một lưới ε với ε=1/4
phải|khung| Các đường thẳng qua một điểm _P_ cho trước và tiệm cận với đường _R_ phải|nhỏ|250x250px| Một hình tam giác nằm trong một mặt phẳng hình yên ngựa (một [[paraboloid hyperbol), cùng với hai
**Hình học elliptic** là một ví dụ về hình học trong đó tiên đề song song của Euclid là không đúng. Thay vào đó, như trong hình học cầu, không có đường thẳng song song
**Lý luận hành động** (hay **học thuyết hành động**) là một lĩnh vực trong triết học có liên quan đến các học thuyết về các quan hệ nhân quả có ý chí của chuyển động
nhỏ| [[Đường cong siêu ellip được xác định bởi y^2=x(x+1)(x-3)(x+2)(x-2) chỉ có hữu hạn điểm hữu tỷ (chẳng hạn như các điểm (-2, 0)(-1, 0)) theo định lý Faltings. ]] Trong toán học,
Nghệ thuật là gì Cùng tìm hiểu nhé Tôi suy nghĩ, vì thế tôi đọc cuốn này Chủ nghĩa duy lý hay chủ nghĩa kinh nghiệm So găng nào Triết học ở mức độ nhập
Hình chỏm cầu màu xanh và mặt cắt. Trong hình học không gian, **hình chỏm cầu**, **hình vòm cầu**, hay **hình đới cầu có một đáy** là một phần của hình cầu bị chia bởi
**Vật chất** theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái
**_Suy ngẫm về Triết học tiên khởi_**, với tựa đề con **_Chứng minh sự tồn tại của Chúa trời và sự khác biệt thực sự giữa tâm và thân_**, (tên Latinh: _Meditationes de prima philosophia,
Sách gồm ba tập được in chung Phương pháp luận, Những suy niệm siêu hình học, Triết học Descartes. Descartes đã có những đóng góp lớn lao, có tính lịch sử về phương diện triết
Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao
**Triết học Ấn Độ giáo** đề cập đến các triết lý, quan điểm và giáo lý thế giới xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại. Chúng bao gồm sáu hệ thống (_shad-darśana_) - Sankhya, Yoga,
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
**Immanuel Kant** (; phiên âm tiếng Việt: **Imanuen Cantơ**; 22 tháng 4 năm 1724 – 12 tháng 2 năm 1804) là một triết gia người Đức có ảnh hưởng lớn đến Kỷ nguyên Khai sáng. Ông
**Georg Wilhelm Friedrich Hegel** (; Ludwig Fischer và mẹ cậu bé vẫn sống ở Jena. thumb|upright=0.7|[[Friedrich Immanuel Niethammer (1766–1848) rộng lượng hỗ trợ tài chính cho Hegel và giúp ông có được nhiều chức vụ.]]
**Thực tế** là tổng hợp của tất cả những gì có thật hoặc tồn tại trong một hệ thống, trái ngược với những gì chỉ là tưởng tượng. Thuật ngữ này cũng được sử dụng
nhỏ|Sách _Mitologia Comparata (Thần thoại đối chiếu)_ năm 1887 bằng [[tiếng Ý]] **Thần thoại học** (tiếng Hy Lạp: _μυθολογία_ ghép từ _μῦθος_ - "thần thoại" hay "truyền thuyết" và _λόγος_ - "lời nói", "câu chuyện",
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
Trong những luận triết đầu tiên của tâm lý học và siêu hình học, **_conatus_** (; trong tiếng Latin có nghĩa là _nỗ lực_, _cố gắng_, _thúc đẩy_, _thiên hướng_, _quyết tâm_, _phấn đấu_) là
**Thomas Aquinas** (tiếng Ý: **Tommaso d'Aquino**, tiếng Latinh và tiếng Anh: **Thomas Aquinas**) (1225-1274), cũng phiên âm là **_Tômát Đacanh_** từ tiếng Pháp **Thomas d'Aquin**, là một tu sỹ, linh mục dòng Đa Minh người
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Triết học khoa học** là một nhánh của triết học quan tâm đến nền tảng, phương pháp và các hậu quả của khoa học. Các câu hỏi trung tâm của môn học này bao gồm
**Động cơ vô động lực** () hoặc **động cơ ban sơ** () là một khái niệm được Aristotle phát triển để miêu tả một tác nhân chính (hoặc **tác nhân vô tác nhân**) hoặc "động
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg#/media/File:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg|nhỏ|Hình ảnh của linh hồn trong triết học Rosarium. **Tâm hồn** trong nhiều truyền thống tôn giáo, triết học và thần thoại, là bản chất hợp nhất của một sinh vật. Tâm hồn trong
thumb|right|Quang học nghiên cứu hiện tượng [[tán sắc của ánh sáng.]] **Quang học** là một ngành của vật lý học nghiên cứu các tính chất và hoạt động của ánh sáng, bao gồm tương tác
Trong toán học, **chuỗi** có thể được nói là, việc cộng lại vô hạn các số lại với nhau bất đầu từ số ban đầu. Chuỗi là phần quan trọng của vi tích phân và
**Bản thể luận** (**Ontology** – Οντολογία, từ Hy Lạp cổ đại do sự kết hợp giữa _oντος_: _tồn tại_ và _λόγος_: _học thuyết_) là một khuynh hướng chủ đạo của triết học phương Tây cổ
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
**Vật tự thể** hoặc **Vật tự thân** - được dịch từ thuật ngữ gốc Đức là **Das Ding an sich** - vốn là một cách lập khái niệm của triết gia Immanuel Kant và với
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
1. Triết học kỳ thú Nghệ thuật là gì Cùng tìm hiểu nhé Tôi suy nghĩ, vì thế tôi đọc cuốn này Chủ nghĩa duy lý hay chủ nghĩa kinh nghiệm So găng nào Triết
**Karl Heinrich Marx** (phiên âm tiếng Việt: **Các Mác**; 5 tháng 5 năm 1818 – 14 tháng 3 năm 1883) là một nhà triết học, kinh tế học, sử học, xã hội học, lý luận
**Chủ nghĩa tự nhiên** triết học đã được miêu tả theo nhiều kiểu. Theo nghĩa rộng nhất và mạnh nhất, chủ nghĩa tự nhiên là quan điểm siêu hình rằng "tự nhiên là tất cả
**Triết học về tôn giáo** là "sự kiểm tra triết học về các chủ đề và khái niệm trung tâm liên quan đến truyền thống tôn giáo". Các cuộc thảo luận triết học về các
CÕI TRẦN VÀ CÕI SIÊU HÌNH Tác giả Ths. Vũ Đức Huynh biên soạn Tủ sách Sách tham khảo, tâm linh Đơn vị cấp phép NXB Hồng Đức Giá bìa 88.000 đồng Mã vạch 8935077039269
**Averroës** hay **Ibn Rushd** (), tên đầy đủ: ****),1126 - 11 tháng 12 năm 1198, là một nhà triết học, thầy thuốc và nhà thông thái người Al-Andalus-Ả Rập, ông có những đóng góp nghiên
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch
**Chiêm tinh học và thiên văn học** được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: _astrologia_) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17
**Piet Hein** (16 tháng 12 năm 1905 – 17 tháng 4 năm 1996) là một nhà toán học người Đan Mạch, nhà phát minh, nhà thiết kế, tác giả, và là nhà thơ, dưới bút
**Thuyết nhất nguyên**, hay **nhất nguyên luận** là quan niệm thần học và siêu hình học cho rằng tất cả thế giới đều thuộc về một bản chất, nguyên lý, chất hay năng lượng, tất
**Friedrich Wilhelm Nietzsche** ( hay ;; phiên âm tiếng Việt: **Nitsơ**; 15 tháng 10 năm 1844 – 25 tháng 8 năm 1900) là một nhà triết học người Đức. Ông bắt đầu sự nghiệp như
Trong triết học, sự **biến hóa** (tiếng Anh: becoming) là của sự thay đổi trong một mà sự vật đấy có tồn tại sự . Trong nghiên cứu triết học của bản thể luận, khái
**Lý học** () là triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo, khởi nguồn từ Hàn Dũ và vào đời Đường và trở thành cường thịnh vào đời Tống và Minh nhờ Chu