✨RPK

RPK

RPK là súng máy cá nhân do kĩ sư Mikhail Kalashnikov của Liên Xô thiết kế, súng được đưa vào biên chế Quân đội Xô Viết năm 1962 để nhằm mục đích thay thế DP và RPD.

Tên gọi súng được viết tắt theo tiếng Nga: Ручной пулемёт Калашникова (_Ruchnoy Pulemyot Kalashnikova_). Thết kế của RPK được dựa hoàn toàn theo mẫu AK-47. Báng của RPK được thiết kế giống báng của RPD. Nòng của RPK dày và dài hơn AK-47 để phù hợp với chức năng của súng. Súng có hai loại hộp tiếp đạn tiêu chuẩn là loại hộp đạn cong 40 viên và loại hình trống 75 viên, ngoài ra súng còn có thể sử dụng hộp tiếp đạn 30 viên của AK-47/AKM cũng như nhiều kiểu hộp tiếp đạn khác nhau như kiểu hộp đạn 100 viên của Liên Xô hay của Trung Quốc.

Súng có 3 phiên bản chính là RPK, RPKS (RPK dùng báng gập) và RPKM. Các phiên bản dùng đạn 5.45x39mm là RPK-74 và RPKS-74. Ngoài ra, một số nước cũng tự thiết kế vài phiên bản RPK riêng với một số tên gọi khác nhau và một số sửa đổi bên ngoài.

Lược sử thiết kế và trang bị

Kỹ sư Simonov của Liên Xô thiết kế súng carbine bán tự động CKC vào năm 1945. Đây là khẩu súng đầu tiên của Liên Xô hoàn thiện thiết kế trên cơ sở đạn hỏa lực trung bình (ngày nay được gọi là đạn súng trường tiến công). Khẩu súng được đưa vào phiên chế, thay thế các súng trường chiến đấu Mosin-Nagant M91/30 và SVT-40 trong vai trò súng trường chiến đấu tiêu chuẩn. Súng gọn hơn, nhẹ hơn, sử dụng đạn 7,62×39mm M43 mới, khả năng xuyên và độ chính xác vừa phải, phù hợp với chiến tranh hiện đại (vào thời điểm đó), sức giật nhẹ hơn các loại đạn súng trường chiến đấu tiêu chuẩn như 7,62x54mmR hay 7,92x57mm IS.

Sau đó là sự ra đời của RPD do Degtyaryov thiết kế năm 1944, cũng dùng đạn 7,62×39mm M43. RPD là súng máy áp dụng cơ cấu tiếp đạn bằng dây băng như các súng máy đa năng và súng máy hạng nặng, nhưng do dùng đạn 7,62x39mm M43 nên nhẹ hơn các súng máy hạng nhẹ cùng thời dùng hộp tiếp đạn lò xo 20-30 viên. Súng vẫn bảo đảm khả năng bắn chế áp tiêu diệt hiệu quả tới 600m như các súng máy dùng đạn súng trường chiến đấu. RPD đã bước đầu thay thế súng máy DP trong vai trò hỏa lực bắn thẳng tự động của tiểu đội. Việc thay thế hai súng này được tiến hành ngay sau chiến tranh.

SKS và RPD đã đưa Hồng quân Xô Viết tiến thêm một bước so với các quân đội khác lúc đó vẫn đang dùng đạn súng trường chiến đấu tiêu chuẩn. SKS là súng carbine bán tự động, tốc độ bắn thực cao hơn súng trường chiến đấu bán tự động do sức giật nhẹ, có khả năng tác xạ chính xác vượt giới hạn tầm ngắm hiệu quả 300m của binh sĩ thông thường. RPD nhiều đạn, cung cấp hỏa lực bắn thẳng tự động dày đặc không thua kém MG-34 của Đức, nhưng nhẹ hơn, cơ động hơn. Tuy nhiên, khả năng "xung kích" chủ yếu vẫn do các loại súng ngắn liên thanh như PPSh-41 và PPS-43 đảm nhiệm.

Súng trường tiến công AK-47 của Kalashnikov ra đời và đi vào phiên chế với tham vọng thay thế cả súng ngắn liên thanh và súng trường, trở thành súng bộ binh chủ lực, với ưu thế kết hợp cả hai loại, nâng sức chiến đấu của đội hình bộ binh Liên Xô lên rất cao. Ngoài ra, việc trang bị một bộ xung hỏa lực đa năng dùng chung đạn cũng làm giảm gánh nặng hậu cần và các vấn đề thiếu hụt liên quan. Đây là thời điểm 1949 - 1956, khi Liên Xô vẫn áp dụng concept trang bị súng ngắn liên thanh - súng trường chiến đấu.

Mặc dù vậy, bộ xung hỏa lực AK-47 – RPD lại đặt ra vấn đề về khả năng bắn ngắm mục tiêu xa vì tầm bắn hiệu quả của AK-47 lúc đó thấp hơn của SKS, chỉ đạt 300m, về sau khi cải tiến chất lượng nòng mới đạt 400m. Khả năng giới hạn của AK làm súng không được binh sĩ tin tưởng. Binh sĩ Liên Xô đã từng trải qua chiến tranh, hiểu rõ tầm bắn chính xác 300m của AK-47 có thể thất thế trước các súng trường chiến đấu, như các đơn vị xung kích Đức trong trận Stalingrad, trang bị phần lớn là MP-40, họ bộc lộ từ xa và bị quân Liên Xô tiêu diệt bằng súng trường chiến đấu và súng máy. Trang bị hoàn toàn AK-47 do đó là không hoàn thiện. AK-47 vẫn còn nằm trong phân loại súng tự động cá nhân (avtomat) cùng PPSh-41, và chỉ được trang bị thay thế PPSh-41 ở các đơn vị xung kích chuyên đánh ác liệt tầm gần tương tự như Stoßtruppen của quân Đức thời Thế chiến II.

Năm 1959, súng máy cá nhân RPK ra đời và đi vào biên chế nhằm giải quyết vấn đề trên. RPK sau này cũng thành công vang dội như AK-47. Súng rất nhẹ so với nhiều loại súng máy vào thời điểm đó. Đây là khẩu súng 3 trong 1: súng máy xách tay, súng trường tiến công và súng trường chiến đấu, thiết kế theo yêu cầu chiến thuật coi trọng tính cơ động của Hồng quân Liên Xô. Mặc dù có một số điểm hạn chế, nhưng RPK đã hoàn toàn thay thế cho RPD, tạo nên bộ xung hỏa lực AK-47 – RPK, đảm nhiệm toàn bộ các chức năng chiến đấu của bộ xung hỏa lực cũ (súng ngắn liên thanh – súng trường chiến đấu – súng máy trợ chiến).

Nhưng những ưu thế của RPK chỉ được thể hiện khi các nhược điểm được súng máy đa chức năng PK bù đắp. PK do Kalashnikov thiết kế nhằm theo đuổi chương trình súng máy đa năng của Liên Xô đầu thập niên 1950 nhằm thay thế các súng máy hạng trung và hạng nặng như PM M1910, DS-39, SG-43. Sau các thử nghiệm, PK chiến thắng RP-46 của Degtyarov và PN của Nikitin. Năm 1961, súng trở thành súng máy đa năng đầu tiên được trang bị trong quân đội Liên Xô. PK dùng cỡ đạn 7,62x54mmR, nòng rời có thể thay thế, có thể trang bị cho một binh sĩ làm súng máy cá nhân với hộp đạn 100 viên gắn dưới súng, cũng như đặt trên giá súng làm súng máy hạng trung như MG-34, MG-42, với các dây băng 200 và 250 viên. Có hỏa lực tầm xa dày đặc của PK, RPK mới có khả năng bộc lộ ưu thế hỏa lực cơ động bám sát.

Giai đoạn 1959 - 1961 cũng là thời điểm AKM và súng phóng lựu chống tăng RPG-7 ra đời. AKM được cải tiến nâng tầm bắn lên 400m cùng nhiều tính năng quan trọng khác. Súng phóng lựu chống tăng RPG-7 có tầm bắn hiệu quả lên đến 300m so với 150m của RPG-2; đạn PG-7 mạnh hơn, đáng tin cậy hơn so với đạn PG-2. RPG-7 làm cự li và hiệu quả đối phó thiết giáp của tiểu đội bộ binh Liên Xô tăng lên ngang tầm súng trường, gia tăng khả năng tiến công liên tục. Đây cũng là một nhân tố thuận lợi để RPK được chấp nhận. Năm 1961, RPK cuối cùng cũng được chấp nhận biên chế chính thức cùng AKM và PK.

Giai đoạn 1959 - 1961 đánh dấu sự lên ngôi của triều đại Kalashnikov trong quân đội Liên Xô cùng với RPG-7 và SVD Dragunov (được chấp nhận năm 1963).

Tính năng, ưu điểm & khuyết điểm

RPK có thể bắn như [[battle rifle hay súng trường tấn công]] nhỏ|299x299px|RPK với băng đạn trống 75 viên Súng được thiết kế theo yếu cầu chiến thuật coi trọng tiến công: súng máy cá nhân trang bị ở cấp tiểu đội, cùng với súng máy đa năng PK trang bị ở cấp trung đội tạo thành một lưới hỏa lực bắn thẳng tự động. Các đơn vị bộ binh không vận, bộ binh cơ giới sử dụng RPK theo nguyên tắc chiến thuật tương tự. Khi tấn công, người lính mang hộp tiếp đạn lớn 75 viên, phát triển cùng với các thành phần khác trong tiểu đội. Trên đường tiến công, RPK bắn yểm trợ bám sát như một súng trường tiến công hỏa lực mạnh. Trường hợp phòng thủ, súng từ vị trí bắn trong công sự, sử dụng giá 2 chân, tương tự như các súng máy dây băng. Súng cũng có thể dùng điểm xạ như súng trường chiến đấu đối với các mục tiêu xa. RPK rất thích hợp đối với các đơn vị trinh sát bộ binh.

RPK có kính ngắm bắn tỉa quang học/hồng ngoại NSP-2 chuyên dụng. Có bộ phận hiệu chỉnh lệch gió để trở thành một súng trường bắn tỉa. Tuy nhiên, đây không phải là chức năng chính của súng.

RPK thừa kế các đặc tính đáng tin cậy, ít hỏng hóc, dễ bảo dưỡng, sửa chữa của dòng súng Kalashnikov, một số bộ phận có thể hoán đổi với AK-47 (luôn sẵn có), hộp tiếp đạn có thể dùng chung. Súng có thể dễ dàng bắn từ trong xe chiến đấu bộ binh BMP và xe bọc thép chở quân.

Tuy vậy, RPK cũng mang nhược điểm cơ bản của trung liên nhẹ, đó là nhanh nóng nòng. Súng chỉ cho phép bắn lâu dài với tốc độ 80 phát/phút trong thực tế (Xạ thủ phải tính toán để bắn hiệu quả 80 viên trong một phút). Trong khi đó yêu cầu của kiểu loại súng máy cá nhân, nhất là yêu cầu chiến thuật để trang bị súng máy dây băng như RPD, phải là 200 phát/phút. Nòng nóng dẫn đến đạn trong buồng rất nóng, đường đạn trong không ổn định. Chức năng bắn tỉa cần độ chính xác cao dùng chung với chức năng bắn liên thanh trợ chiến, dẫn đến độ chính xác nhanh giảm. Người sử dụng cần tuân thủ yêu cầu làm sạch nòng súng, không được bắn khi nòng bẩn.

Thực ra, với tốc độ bắn vừa phải và nòng luôn sạch, súng có độ ổn định rất cao. Ngoài nhược điểm này, khẩu súng khá hoàn hảo.

Về chiến lược thiết kế, việc dùng hộp tiếp đạn cong 40 viên dẫn đến hạn chế số lượng đạn mang theo và gia tăng số lượng thời điểm dừng thay hộp tiếp đạn. Điều này không gây trở ngại do học thuyết quân sự Liên Xô lúc đó, toàn tiểu đội cùng tiến công mục tiêu, súng máy cá nhân vừa hành tiến cùng các súng xung lực bắn chế áp ở chế độ liên thanh. Khác các kiểu chiến thuật khác, xạ thủ súng máy đặt súng một chỗ bắn chế áp trong khi đồng đội xung phong. Học thuyết quân sự Liên Xô phát triển số lượng lớn súng máy đa chức năng PK, biên chế đến trung đội và thậm chí tiểu đội bộ binh hạng nặng, làm nhiệm vụ bắn áp chế loạt dài. Với các chiến thuật khác, hộp tiếp đạn này không gây khó khăn cho xạ thủ RPK. Súng được dùng điểm xạ từng loạt như súng trường.

Hai kiểu chiến thuật trên đều có ưu nhược điểm riêng, và có xu hướng đối lập nhau. Việc phát triển kiểu loại súng máy phải phù hợp với chiến thuật mà súng tham gia.

Số liệu

  • Loại: Trung liên hạng nhẹ
  • Nước thiết kế: Liên Xô
  • Nước sản xuất: Liên Xô và nhiều nước khác.
  • Nước sử dụng: Liên Xô và nhiều nước khác.
  • Cơ cấu: Trích khí xung, khóa nòng xoay, bắn khi khóa nòng đóng, chọn chế độ bắn.
  • Trọng lượng súng: 4,8& kg (không mang đạn)
  • Trọng lượng hộp tiếp đạn 40 viên: 0,3 kg (không lắp đạn)
  • Trọng lượng hộp tiếp đạn 75 viên: 0,9 kg (không lắp đạn)
  • Chiều dài: 1060 m
  • Nòng súng: dài 590 mm, 4 khương tuyến chiều xoay trái - phải
  • Cỡ nòng: 7,62 mm
  • Loại đạn: 7,62×39mm
  • Tốc độ bắn lý thuyết: 600 phát/phút
  • Tầm bắn xa nhất: 3000 m
  • Tầm bắn sát thương: 1500 m
  • Tầm bắn hiệu quả: 500 m (đối với mục tiêu tập trung)
  • Sơ tốc đường đạn: 747 m/s

Các quốc gia sử dụng

  • Tự chế tạo và sản xuất
  • : Các phiên bản mang tên LMG với 3 cỡ nòng, 7,62×39mm, 5,45×39mm và 5,56×45mm NATO. Phiên bản báng thép gập mang tên LMG-F.
  • : Sản xuất tại Fabrica de Arme Cugir SA, phiên bản 7,62 mm Puşcă Mitralieră model 1964 ("Trung liên kiểu năm 1964")
  • : Zastava Oružje sản xuất các phiên bản M72B1 và M72AB1 dùng đạn 7,62×39mm, M90 và M90A dùng đạn 5,56×45mm NATO.
  • : Phiên bản TUL-1 được thiết kế trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam dựa trên RPK. Sau chiến tranh, Việt Nam sản xuất RPK theo bản quyền và thiết bị do Liên Xô cung cấp trực tiếp và thay thế Liên Xô và tự chế tạo ra và nâng cấp lên cho đến ngày nay.
  • : Biến thể Valmet M78 sử dụng đạn 7, 62×51mm NATO được sản xuất bởi Valmet , được sản xuất từ năm 1976-1986
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**RPK** là súng máy cá nhân do kĩ sư Mikhail Kalashnikov của Liên Xô thiết kế, súng được đưa vào biên chế Quân đội Xô Viết năm 1962 để nhằm mục đích thay thế DP
**RPK-16** là một phiên bản hiện đại hóa của súng máy hạng nhẹ RPK-74. Nó được thiết kế để thay thế cho dòng súng RPK-74 cũ sử dụng loại đạn 5,45x39mm. RPK-16 có thiết kế
**Súng máy RPK-74** (tên tiếng Nga: Ручной пулемёт Калашникова образца 1974 года, РПК-74) là một loại súng máy tự động của tổ được phát triển bởi hãng thiết kế Kalashnikov Design Bureau của Liên xô
nhỏ|Một khẩu [[súng ngắn bán tự động SIG Pro]] **Súng** là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt
**7,62×39mm M43** là loại đạn súng trường xung kích nổi tiếng do các kỹ sư Nicholai M. Elizarov và Boris V. Semin của Liên Xô thiết kế. Đạn được phát triển vào năm 1943, nhưng
**Tên lửa chống tàu** (**tên lửa đối hạm**) là một loại tên lửa được thiết kế để chống lại các tàu trên mặt biển của hải quân. Hầu hết các tên lửa chống tàu là
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
**Súng trường tự động Kalashnikov** (**А**втомат **К**алашникова (chữ Kirin, viết thường) hoặc **A**vtomat **K**alashnikov (chữ Latinh), viết tắt là **АК**, **ак** hay **AK**) là một trong những súng trường tấn công (theo phân loại của
nhỏ|phải|Khẩu [[RPK, một trong những mẫu súng máy hạng nhẹ cỡ 7,62 mm thông dụng trong các nước Khối Warszawa.]] **Súng máy hạng nhẹ** (tiếng Anh: _light machine gun_ - **LMG**) hay **súng trung liên**
**Mikhail Timofeyevich Kalashnikov** (tiếng Nga: Михаил Тимофеевич Калашников) (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1919 - 23 tháng 12 năm 2013) là tổng công trình sư thiết kế vũ khí nổi tiếng của Liên Xô
**AK-12** hay **6P70** (tiếng Nga: _6П70_) là mẫu thiết kế mới nhất của dòng súng trường tự động Kalashnikov, là súng bộ binh chủ lực thay thế cho AK-74/AK74M của Quân đội Nga. **AK-12** (định
Tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp **Akula**, tên định danh của Liên Xô là **Project 971 _Shchuka-B**_ (, tên định danh của NATO là _**Akula**_) là tàu ngầm tấn công
**Tàu ngầm Đề án 941 Akula** (tiếng Nga: **Проекта 941 Акула**) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo được triển khai bởi Liên Xô trong những năm 1980. Với trọng tải
**Quân chủng Hải quân**, hay còn gọi là **Hải quân nhân dân Việt Nam**, là một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hải quân nhân dân Việt Nam có 6 đơn vị:
Có rất nhiều vũ khí do Liên Xô và các nước khác chế tạo chịu ảnh hưởng từ thiết kế AK-47 của kỹ sư Kalashnikov. Sau đây là danh sách không đầy đủ * AEK-971
Súng máy [[PK (súng máy)|PK của Lục quân Iraq|thế=]] **Súng máy**, còn gọi là **súng liên thanh**, là một loại súng có thể bắn hoàn toàn tự động, có khả năng bắn thành các loạt
nhỏ|[[Súng trường Henry, loại súng trường đầu tiên sử dụng công nghệ đòn bẩy.]] **Súng trường** (tiếng Anh: _Rifle_) là một loại súng cá nhân gọn nhẹ với nòng súng được chuốt rãnh xoắn, có
**Danh sách súng máy** là trang liệt kê các loại súng máy. ### Súng máy cá nhân loại nhẹ/súng máy theo tổ *Besal *Bren (L4) *Browning wz.1928 *Charlton Automatic Rifle *Chauchat *Súng trường tự động
**5,45x39mm M74** là loại đạn súng trường tấn công nổi tiếng của Liên Xô được thiết kế và đưa vào sử dụng năm 1974 cho súng trường tấn công mới AK-74, nhằm thay thế cho
**Vepr-1V** (tiếng Nga: Вепрь-1В) là loại súng trường bán tự động được thiết kế và chế tạo tại nhà máy cơ khí Molot tại Vyatskie Polyany, Kirov Oblast, Nga. Súng được thiết kế dựa trên
**Tập đoàn Kalashnikov** (, _Kontsern Kalashnikova_); trước 2013 có tên là **Nhà máy chế tạo máy Izhevsk** (, _Izhevskiy mashinostroitel'nyy Zavod_) hoặc **Izhmash** (**ИЖМАШ**) là một tập đoàn cổ phần sản xuất quốc phòng Nga,
Tàu ngầm lớp Victor, ký hiệu theo Liên Xô: **Project 671 _Yorsh**_, **Project 671RT _Syomga_** và **Project 671RTM/RTMK _Shchuka**_, (tên gọi của NATO **Victor I**, **Victor II** và **Victor III**, là một lớp tàu ngầm
**Viện kỹ thuật nhiệt Moscow-Moscow Institute of Thermal Technology** (**MITT**; ) là một viện nghiên cứu của Nga thành lập từ ngày 13 tháng 5 năm 1946. Trụ sở của viện đặt tại quận Otradnoye
**NK-33** và **NK-43** là những động cơ tên lửa được thiết kế và chế tạo bởi Viện thiết kế động cơ Kuznetsov vào cuối những năm 1960s, đầu những năm 1970s. NK là viết tắt
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**RPG-7** là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân, còn được gọi tại Việt Nam là **B41**. Gọi là B41 vì loại súng này là đời sau của B40 (hay bazooka 40 mm),
**CKC** (viết tắt của "**С**амозарядный **К**арабин системы **С**имонова" trong tiếng Nga, nghĩa là _Súng cạc-bin nạp đạn tự động cơ cấu Simonov_), phương Tây gọi là **SKS**, là loại súng trường bán tự động bắn
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
Trung liên **RPD** (Ручной Пулемет Дегтярева - **R**uchnoy **P**ulemyot **D**egtyareva) là loại súng máy được trang bị cho từng người hoặc tổ bộ binh để tiêu diệt sinh lực địch, mục tiêu lẻ và chi
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
SIA Boeing 777-300ER phải|[[Airbus A380]] phải|[[Airbus A350|Airbus A350-900]] phải|[[Boeing 787 Dreamliner|Boeing 787-10]] **Singapore Airlines** (Viết tắt: **SIA**; tiếng Mã Lai: Syarikat Penerbangan Singapura, , _Tân Gia Ba hàng không công ty_; viết tắt 新航 -
**Danh sách vũ khí hiện đại** là danh sách của các loại vũ khí đang được nghiên cứu, phát triển và được sản xuất trên thế giới. ## Danh sách theo nước _Xem tại trang
Lính thủy đánh bộ đang bắn [[M240G tại trại Hansen, ở Okinawa]] **Súng máy hạng nặng** (thuật ngữ tiếng Anh: **heavy _machine gun**_ - **HMG**) hay **súng đại liên** là thuật ngữ hiện đại thường
**Trận điểm cao 3234** là một trận phòng thủ giữa 39 lính dù Liên Xô (VDV) chống lại số lượng chiến binh Mujahideen đông đảo hơn nhiều lần, diễn ra trên _điểm cao 3234_ tại
**Valmet M76** hay Rk 62/76 là súng trường tấn công nạp đạn bằng khí nén được Phần Lan phát triển, nó cũng có bản sử dụng chế độ bắn bán tự động để bán cho
**Tiểu đội** là đơn vị rất nhỏ của tổ chức đơn vị quân đội, gồm 10-12 lính, có thể chia thành các _toán_ hay _tổ_ nhỏ hơn, gồm 1-4 lính. Chỉ huy tiểu đội là
Nội chiến Lào là một cuộc xung đột quân sự giữa lực lượng du kích theo chủ nghĩa Marx là Pathet Lào chống lại Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào (FAR) của Vương quốc
Tăng [[T-55 được dùng trong cuộc nội chiến Campuchia]] Nội chiến Campuchia là một cuộc xung đột đẫm máu giữa **Đảng Campuchia Dân chủ** (được gọi là Khmer Đỏ) và nước Cộng hòa Khmer (République
**AMD 65** là loại súng trường tấn công do Hungary chế tạo và bắt đầu nghiên cứu năm 1965. **AMD 65** là viết tắt của **A**utomata **M**ódosított **D**eszant 19**65** theo tiếng Hungary. Súng thích hợp
**Vepr-12** (tiếng Nga: Вепрь-12) là loại súng shotgun bán tự động được thiết kế và chế tạo tại nhà máy cơ khí Molot tại Vyatskie Polyany, Kirov Oblast, Nga. Đây là loại shotgun bán tự
**PSL** (**P**uşcă **S**emiautomată cu **L**unetă model 1974) là loại súng bắn tỉa bán tự động dùng cho lính thiện xạ của lực lượng quân đội România được phát triển vào đầu những năm 1970. Nó
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**Súng trường M14** có tên chính thức là **United States Rifle, 7.62 mm, M14**, là một khẩu súng trường bán tự động sử dụng loại đạn 7,62×51mm NATO (.308 Winchester) của Mỹ. Nó từng là súng
**RBU-6000** (tiếng Nga: РБУ-6000, **Р**еактивно-**б**омбовая **у**становка-6000) là hệ thống vũ khí chống tàu ngầm phát triển tại Liên Xô, hệ thống này phóng các quả depth charge có đường kính 212 mm. Vũ khí này được
**Metro: Last Light** là trò chơi điện tử bắn súng góc nhìn thứ nhất kết hợp sinh tồn. Trò chơi là phiên bản nối tiếp của Metro 2033 có cốt truyện dựa trên cuốn tiểu
nhỏ|Huy hiệu của Lực lượng Đặc nhiệm hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam **Lực lượng Đặc nhiệm hải quân** (còn gọi là **đặc công hải quân**, **đặc công nước**, **đặc công thủy**) là
**ZU-23-2 "Sergei"**, hay **ZU-23**, là một loại pháo phòng không bán cố định, có chế độ bắn tự động, nòng đôi cỡ nòng 23 mm do Liên Xô nghiên cứu và chế tạo. ZU là viết
**Súng trường tiến công vz. 58** (Mẫu 58) là một loại súng được thiết kế và chế tạo tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia) và được đưa vào sử dụng vào
Tàu ngầm lớp **Yasen**, định danh của Nga là **Project 885 Yasen** và **Project 885M Yasen-M** (, Tên ký hiệu của NATO: **Severodvinsk**), hay cũng thường được nhắc đến là tàu ngầm lớp **_Graney_**, là