✨Súng máy hạng trung

Súng máy hạng trung

Lính thủy đánh bộ đang bắn [[M240G tại trại Hansen, ở Okinawa]] Súng máy hạng nặng (thuật ngữ tiếng Anh: heavy _machine gun_ - HMG) hay súng đại liên là thuật ngữ hiện đại thường dùng để chỉ các loại súng sử dụng dây đạn để nạp đạn, bắn tự động liên thanh liên tiếp cũng như sử dụng các loại đạn súng trường mạnh.

Lịch sử

Vào cuối những năm 1800 súng Gatling và các loại súng có cơ chế hoạt động bằng máy móc như Nordenfelt đã được yêu cầu chế tạo có thể sử dụng nhiều kích thước của nhiều loại đạn khác nhau như loại nửa inch hay một inch. Việc chúng có nhiều nòng cho phép giảm thiểu tối đa việc bị quá nóng, và khi đó chúng trở nên khá nặng nên đôi khi còn gọi là súng máy hạng nặng.

Khi Hiram Maxim thiết kế khẩu súng máy sử dụng kiểu nạp đạn bằng phản lực bắn chỉ có một nòng của mình thì mẫu đầu tiên được thiết kế có trọng lượng 26 pound (11,8 kg) và bắn loại đạn súng trường.45-inch từ nòng dài 24 inch. Và trong bức ảnh nổi tiếng của Maxim, loại súng này đã được giảm trọng lượng xuống còn 15 pound (6,8 kg) có thể mang bởi một tay cùng với bệ chống ba chân của nó. Nó khá giống với các mẫu súng máy hạng trung ngày nay (tính đến 2005), nhưng nó không thể bắn liên tiếp trong thời gian dài. Vì thế ông đã tạo ra một hệ thống làm mát bằng nước bọc ngoài để nó có thể hoạt động trong thời gian dài mà không bị quá nóng. Điều này làm tăng trọng lượng của súng lên đáng kể như bù lại nó có thể sử dụng các loại đạn mạnh hơn. Việc gắn thêm hệ thống làm mát bằng nước khá nặng khiến cho nó trở thành súng máy hạng nặng cổ điển. Tuy nhiên việc sử dụng hệ thống nạp đạn bằng phản lực bắn tự động vốn nhẹ hơn nhiều so với hệ thống nhiều nòng vẫn không bị thay thế trong các thiết kế của súng máy hiện đại ngày nay. Tuy nhiên hệ thống này đã bị thay thế trong các loại súng như súng ngắn Borchardt C-93, súng trường tấn công Cei-Rigotti cũng như súng máy Madsen 1902 vốn sử dụng hệ thống nạp đạn tự động bằng cách trích khí cũng như hệ thống làm mát bằng không khí nhẹ hơn nhiều.

Các mẫu súng máy nhẹ, trung, nặng đầu những năm 1900

Có rất nhiều mẩu thiết kế mới được phát triển, một số được trang bị hệ thống nạp đạn bằng phản lực bắn, hệ thống trích khí hoặc kết hợp cả hai (như M1895 Colt-Browning, Hotchkiss...). Cũng như thay vì hệ thống làm mát bằng nước bọc ngoài nặng nề thì chúng sử dụng các hình thức làm mát khác nhau như, gắn nòng thay thay thế, các răng kim loại, trét thêm kem tản nhiệt, hoặc kết hợp tất cả chúng.

Các loại súng máy sau đó được tách ra thành các loại hạng nhẹ và hạng nặng tùy theo thiết kế. Hệ thống làm mát bằng nước của súng Maxim và chất lỏng trong nó được trang bị cho hầu hết các loại súng máy (như MG 08 và súng máy Vickers, cũng như súng máy Browning Model 1917 của Hoa Kỳ). Lấy loại súng Vickers.303 inch (7,7 mm) ra làm ví dụ, một mình nó nặng 33 lb (15 kg) nếu gắn thêm bệ chống ba chân trọng lượng sẽ tăng lên 50 lb (22,7 kg). Một số thiết kế khác có thể nặng hơn đôi khi theo đúng nghĩa là có thể bắn từ sáng đến tối (việc cần thiết để có thể bắn hạ hàng ngàn lính đang tiến đến). Các súng máy hạng nặng có gắn với bệ chống ba chân và đòi hỏi phải có hệ thống làm mát bằng nước (chất lỏng), cũng như được sử dụng bởi những binh lính được đào tạo kỹ lưỡng và được trang bị đầy đủ để có thể bắn nhiều giờ liền cho đến khi trận đánh kết thúc. Việc chọn địa điểm cũng rất quan trọng vì nếu đặt đúng vị trí chiến lược nó có thể chặn cả một đạo quân trước khi họ có thể tiến đến vị trí chiến đấu.

Các súng máy được sử dụng lần đầu tiên trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo ra được dấu ấn riêng trong việc bảo vệ một khu vực rộng lớn. Ngoài các thiết kế của súng máy hạng nặng còn các thiết kế của các súng máy hạng nhẹ. Trong cùng khoảng thời gian đó hệ thống làm mát bằng nước đã được phát triển nó khiến cho những khẩu súng nặng hơn 30 lb (15 kg) trở nên nhẹ và cơ động hơn. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất chúng cũng quan trọng như các súng máy hạng nặng, và đã được trang bị cho các nhóm - đội lính đang hành quân, trên máy bay, trên nhiều phương tiên di chuyển khác nhau (xe tăng là một ví dụ). Chính việc đó đã tạo ra thêm dòng súng máy hạng trung. Súng máy hạng trung đòi hỏi ít hay nhiều hơn những hệ thống làm mát phức tạp nhưng lại nhẹ hơn nhiều và có sức chiến đấu gần tương đương súng máy hạng nặng.

Các súng máy hạng nhẹ được giới thiệu là nhẹ và có thể bắn liên thanh liên tiếp. Chúng vẫn bắn các loại đạn súng trường nhưng có nòng súng nhẹ và không có hệ thống làm mát cũng như được gắn với chân chống (chữ V) không phải bệ chống ba chân. Các súng máy hạng nhẹ không được thiết kế để bắn suốt thời gian. Mẫu nhẹ nhất được thiết kế không thể duy trì việc bắn lâu, và vì chúng không có hệ thống làm mát nên chỉ được gắn những băng đạn có số lương nhỏ nhưng vẫn lớn hơn số lượng của súng trường tấn công. Với các mẫu súng máy được gắn trên chân chống như Chauchat hay Madsen 1902 có độ cơ động rất cao nhưng chỉ có thể bắn từng viên hay bắn liên thanh. Chúng được sử dụng cho bộ binh tấn công rất hiệu quả nhưng lại không có tác dụng mấy nếu gắn trên các phương tiện di chuyển.

Các súng máy hạng trung được thiết kế cho độ cơ động cao, đôi khi có thể được gắn chân chống như các súng máy hạng nhẹ đôi khi được gắn với bệ chống ba chân hay những thứ nặng hơn nữa. Loại súng Hotchkiss Mark I (hay còn gọi là Benet-Mercie M1909) chỉ nặng 27,6 lb (12,2 kg) được biết bến là có thể sử dụng bệ chống ba chân loại nhỏ và có băng đạn 30 viên để gắn trên các phương tiện di chuyển nhưng cũng có thể gắn dây đạn vào chúng. Không được nhầm chúng với các mẫu Hotchkiss khác nặng hơn (như mẫu M1914), các thiết kế của chúng được chứng minh là rất hữu dụng ngay cả sau Chiến tranh thế giới thứ hai chúng vẫn được dùng cho một số mục đích khác nhau. Thiết kế của no được làm nền cho các mẫu súng máy hạng nhẹ và hạng trung tốt hơn. Chúng cũng chia sẻ những đặc điểm chung là: có thể bắn các loại đạn súng trường mạnh như loại 8 mm Mauser hay.30-06 Springfield.

Khẩu Lewis có trọng lượng 27 lb (12,3 kg) thường dùng băng đạn tròn 47 viên nó thường được dùng bởi những nhóm lính hoặc gắn trên phương tiện di chuyển và cả máy bay, hoặc được đặc trên bệ chống ba chân (đôi khi dùng để phòng không hay thay cho súng máy hạng nặng). Thứ khiến nó trở nên hữu dụng như thế là do nó khá nhẹ tuy nhiên lại có sức mạnh gần tương đương các súng máy hạng nặng cũng như nó có thể bắn gần như một súng máy được làm mát bằng hệ thống làm mát bằng nước lớn. Các loại súng máy đa chức năng được chú ý phát triển sau này sau này chúng được đặt những cái tên như súng máy toàn cục, súng máy đa chức năng và cuối cùng sẽ thay thế các thiết kế làm mát bằng chất lỏng. Một số các thiết kế sau này cho phép sử dụng các nòng thay thế một cách rất nhanh như một cách làm mát cũng như giảm trọng lượng của chúng hơn nữa (nhưng lại tăng trọng lượng mà người lính phải mang phải mang thêm các nòng dự phòng). Một số mẫu thiết kế đẩu như khẩu Vickers có nòng thay thế được tuy nhiên sau này loại này đã bị thay bằng loại có nòng gắn cứng vào thân. Vào những năm trong thập niên 1920 và 1930 các loại có nòng thay thế được như một cách làm mát trở nên bắt đầu được biết đến nhiều hơn (như ZB 1930 sau này là MG-34 và khẩu Bren).

Giữa những năm 1900

Các hệ thống làm mát bằng chất lỏng tiếp tục được sử dụng cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 1960 thì dần dần được thay thế bởi các thiết kế sử dụng hệ thống làm mát bằng không khí nặng. Súng máy hạng trung khi này được dùng như hạng nặng nếu được gắn với bệ chống ba chân hay hạng nhẹ nếu được gắn với chân chống. Đây được xem là khả thi nhật vì súng máy hạng nặng không thể phát huy được hiệu quả khi bị gắn trên các phương tiên vận chuyển khi đang ở trong lòng chiến sự, và bộ phận làm mát bằng không khí nhẹ hơn vẫn gần như bắt kịp với hệ thống làm mát bằng chất lỏng và một số mẫu kết hợp cả hai khiến cho vũ khí trở nên nhẹ hơn. Kết quả là các súng mày hạng trung trở nên được sử dụng rộng rãi không những trong bộ binh mà còn trên xe tăng, máy bay và các bệ chống ba chân.

Việc thực nghiệm súng máy hạng trung vẫn được tiếp tục trong những năm 1930. Pháp đã tạo ra mẫu súng máy Châtellerault M1924 (FM 24/29) với băng đạn 150 viên và có bộ phận làm mát bằng chất lỏng. Đức thì có yêu cầu tạo ra một mẫu súng máy mới với cách gọi là Einheitsmaschinengewehr (súng máy tiêu chuẩn), mà kết quả là đã tạo ra một loại súng máy mới Universelle Maschinengewehr (súng máy toàn cục) đó không chỉ là một khẩu súng máy hạng trung mà còn có thể sử dụng với rất nhiều cách khác nhau dù gì thì tên của nó cũng có ý nghĩa như thế. Nó giống như súng máy hạng trung cũ nhưng được làm ra với mục đích thay thế các loại súng máy hạng nhẹ và súng máy hạng nặng với việc sử dụng cùng loại đạn, dù vậy Đức vẫn sử dụng một lượng lớn các loại súng máy cả nhẹ và nặng nhưng ở mức hạn chế. Việc sử dụng súng máy hạng trung cho nhiều mục đích chiến đấu nên sau này được gọi là súng máy đa chức năng vào những năm 1950. Trên thực tế việc thực nghiệm các loại súng máy có khả năng tác chiến cho nhiều mục đích khác nhau đã có trong thế chiến thứ nhất dù gì thì tên gọi của chúng khác nhau ở từng quốc gia. Xu hướng thay thế nhiều mẫu súng máy hạng trung sẽ là một cú hích cho việc loại bỏ hệ thống làm mát bằng chất lỏng vốn nặng nề nhưng sẽ là một thiệt hại nặng cho việc dùng các vũ khí sử dụng các loại đạn nhỏ của bộ binh.

Cuối những năm 1900

Nước Bỉ đã có khái niệm Mitrailleuse d'Appui General hay súng máy đa chức năng nó trở nên thông dụng trong việc gọi các loại súng máy hạng trung có thể sử dụng trong nhiều mục đích. Súng máy hạng trung bắn đạn súng trường mạnh nhưng có cách để có thể bắn được lâu hơn và nhiều hơn để cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Điều này thường bao gồm việc chúng có khả năng gắn trên chân chống và bệ chống ba chân cũng như có thể thay nòng một cách nhanh chóng. Việc này khiến cho các loại súng có hệ thống làm mát bằng chất lỏng sử dụng cùng loại đạn trở nên không còn hữu dụng trong các tình huống mà chúng phát huy hiệu quả tối đa (bắn liên thanh liên tiếp không nghỉ) và không còn cần thiết trên chiến trường hiện đại. Đó cũng là việc các trường hợp số lượng lớn bộ binh tràn lên tấn công thường ít khi xảy ra, chúng được thay thế bằng chiếc xe thiết giáp nhẹ vốn không phải là mục tiêu của các súng máy hạng trung cũ mà trở thành mục tiêu chính cho các lính mang tên lửa chống tăng. Các loại súng máy hạng trung mới không có khả năng bắn lâu như những loại súng máy hạng trung cũ tuy nhiên việc đó không còn cần thiết nữa. Hầu hết những loại súng hạng trung thường có thể thay nòng một cách nhanh chóng mỗi khi bị quá nóng sau khi bắn 200 viên đạn vì thế các nòng thay thế nhanh là cần thiết (như khẩu Bren). Chúng chỉ có thể tiếp tục bắn khi vẫn còn có nòng thay thế. Tuy nhiên các nòng này thường nặng và đắc tiền vì thế chỉ có một số lượng giới hạn được trang bị. Lấy ví dụ với 2-3 nòng dự phòng chúng không thể bắn liên thanh liên tiếp mãi được vì các nòng được thay vào và ra các nòng không kịp nguội hẳn trước khi lại được gắn vào. Đây là điểm mấu chốt trường hợp phải bắn không nghỉ hiếm khi xảy ra và những vũ khí hay chiến lược khác có thể thay thế trong trường hợp khẩn cấp.

Súng máy hạng trung bắn đạn nhỏ

Trong những năm 1960 và 1970 người ta đã thấy sự xuất hiện của nhiều loại súng tự động sử dụng loại đạn súng trường nhỏ lơn loại đạn súng trường mạnh. Các vũ khí này gọi là nhóm các vũ khí tự động. Chúng đã giành ưu thế trên chiến trường so với các loại súng máy hạng trung và cả các loại súng máy hạng nhẹ sử dụng cùng loại đạn lúc bấy giờ. Tuy nhiên các loại súng máy hạng trung vẫn giành được ưu thế trong các mục đích sử dụng khác như được gắn trên xe cơ giới. Các quốc gia thường gắn nòng súng máy hạng trung bằng một loại nòng nhỏ hơn của súng máy hạng nhẹ.

Những loại súng này thường bắn loại đạn 7.62x39 (giống đạn AK-47) hoặc đạn 5.56x45 NATO tiêu chuẩn (giống đạn AR-15/M-16). Chúng rất nhẹ và được thiết kế để bắn lâu hơn súng trường của bộ binh với khả năng bắn hàng trăm viên. Chúng có trọng lượng như một khẩu súng máy hạng trung cũ rỗng nhưng lại có thể bắn với mật độ dày hơn với các loại đạn loại đạn nhỏ và nhẹ. Chúng được thiết kế nhỏ lại hay nặng hơn có nòng dài hơn các loại súng trường tấn công tiêu chuẩn. Lấy ví dụ như các khẩu FN Minimi, M249 hay RPK.

Đầu thế kỷ 21

Binh lính Hoa Kỳ thực tập bắn đạn thật bằng khẩu [[M60.]] Đây là thời kỳ mà các thiết kế của súng máy hạng trung nhằm vào sự phổ biến của các loại đạn súng trường mạnh cũng như tính hiệu quả của nó, nó được gọi tên thay thế là súng máy đa chức năng hay súng máy toàn cục.

Chúng chủ yếu có điểm chung là có thể thay thế các nòng súng nhanh chóng và có khả năng bắn trên chân chống, bệ chống ba chân hay các trục gắn cũng như có trọng lượng từ 20-30 pound. Các mẫu của phương Tây gần như luôn sử dụng loại đạn súng trường 7.62x51, các mẫu của phương Đông luôn sử dụng loại đạn súng trường 7.62x54R với nòng khá lớn.

Ví dụ như khẩu FN MAG (như M240) được sử dụng bởi lục quân và lính thủy đánh bộ của Hoa Kỳ nó luôn được gọi với tên là súng máy hạng trung M240. Ban đầu nó được gắn trên xe cơ giới những năm 1970 nhưng với độ tin cậy cao nó được sử dụng trong bộ binh nhiều hơn khẩu súng máy M60 với lại nó chỉ nặng hơn có vài pound. Chúng cùng có thể thay nòng nhanh chóng, bắn đước trên cả chân chống và bệ chống ba chân cũng như gần như có cùng trọng lượng và kích cỡ. M60 thường được coi là một súng máy hạng nhẹ hay súng máy đa chức năng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Lính thủy đánh bộ đang bắn [[M240G tại trại Hansen, ở Okinawa]] **Súng máy hạng nặng** (thuật ngữ tiếng Anh: **heavy _machine gun**_ - **HMG**) hay **súng đại liên** là thuật ngữ hiện đại thường
nhỏ|phải|Khẩu [[RPK, một trong những mẫu súng máy hạng nhẹ cỡ 7,62 mm thông dụng trong các nước Khối Warszawa.]] **Súng máy hạng nhẹ** (tiếng Anh: _light machine gun_ - **LMG**) hay **súng trung liên**
Khẩu [[MG 08 của Đức.]] Khẩu [[Browning M2 với bệ chống ba chân]] Khẩu [[DShK của Liên Xô gắn trên xe tăng TR-85.]] **Súng máy hạng nặng** (thuật ngữ tiếng Anh: **_H**eavy **m**achine **g**un_ -
**Shiki 11** (十一年式軽機関銃, Jyūichinen-shiki Kei-kikanjū) là súng máy hạng nhẹ được quân đội Hoàng gia Nhật Bản sử dụng trong các cuộc chiến trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến lớn và suốt chiến tranh
**LMG Shiki 97** (九七式車載重機関銃, Kyūnana-shiki Shasai-jūkikanjū) là một trong những loại súng máy tiêu chuẩn sử dụng trên các xe tăng hoặc xe thiết giáp của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh
**Shiki 99** (九九式軽機関銃, きゅうきゅうしきけいきかんじゅう, Kyūkyū-shiki Kei-kikanjū) là loại súng máy hạng nhẹ được quân đội hoàng gia Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử và phát triển nhỏ|Thượng
**M60** là loại súng máy hạng trung của Hoa Kỳ, bắn loại đạn 7.62×51mm NATO. Được đưa vào từ năm 1957, nó là súng máy rất phổ biến, từng có trong trang bị tiêu chuẩn
**Trung liên Kiểu 96** (九六式軽機関銃 Kyūroku-shiki Kei-kikanjū) là một loại trung liên được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ trước và trong Thế chiến thứ hai. Súng được đánh giá là bền,
Súng máy Lewis là một trong những loại súng máy hạng trung (còn gọi là trung liên) đầu tiên được sản xuất đại trà và được sử dụng rất nhiều trong Thế chiến thứ nhất
**Shiki 92** (九二式重機関銃, きゅうにしきじゅうきかんじゅう, Kyūnishiki jūkikanjū) là loại súng máy hạng nặng tiêu chuẩn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản được đưa vào phục vụ năm 1932 và được quân đội Nhật và Mãn
**Shiki 3** (三年式重機関銃, さんねんしききかんじゅう, San-nen-shiki juu-kikanjuu) còn được biết với cái tên **Taishō 14**, là loại súng máy hạng nặng có hệ thống làm mát bằng không khí có thiết kế dựa theo khẩu Hotchkiss
**_Súng máy hạng nặng kiểu 77_** được xem là kiểu súng máy phòng không sử dụng đạn 12.7 mm đầu tiên do Trung Quốc chế tạo. Kiểu 85 là mẫu phát triển tiếp theo từ nó.
**Súng máy đa dụng kiểu năm 1967** (tiếng Trung: _1967年式通用機槍_, _1967 niên thức thông dụng cơ thương_), ngắn gọn là **Súng máy kiểu 67** (_67式機槍, 67 thức cơ thương_), hoặc **Type 67** trong các tài
thumb|Khẩu PKM của Nga. **Súng máy đa chức năng** hay **súng máy đa năng** (thuật ngữ tiếng Anh: **_g**eneral-**p**urpose **m**achine **g**un_ - **GPMG**) là loại súng máy có khả năng tác chiến mạnh như súng
**Danh sách súng máy** là trang liệt kê các loại súng máy. ### Súng máy cá nhân loại nhẹ/súng máy theo tổ *Besal *Bren (L4) *Browning wz.1928 *Charlton Automatic Rifle *Chauchat *Súng trường tự động
**PK** (tiếng Nga: **П**улемёт **К**алашникова, Pulemyot Kalashnikova) là loại súng máy đa năng được thiết kế từ thời Liên Xô và hiện tại Nga vẫn sử dụng. Loại súng này được giới thiệu vào năm
Súng máy [[PK (súng máy)|PK của Lục quân Iraq|thế=]] **Súng máy**, còn gọi là **súng liên thanh**, là một loại súng có thể bắn hoàn toàn tự động, có khả năng bắn thành các loạt
**_Maschinengewehr_ 34**, viết tắt là **MG-34**, là một loại súng máy của Đức Quốc xã. Súng sử dụng loại đạn 7.92x 57mm Mauser, được sản xuất từ năm 1934 đến năm 1945. Nó làm mát
**Browning M1919** là một loại súng máy đa chức năng, súng máy hạng trung cỡ nòng 7.62mm của Mỹ, đây là một trong những súng máy nổi tiếng nhất của John Browning. Nó được quân
phải|Súng máy [[Browning M2]] **Súng tự động** là loại súng có cơ cấu trích một phần năng lượng khi bắn đẩy vỏ đạn đã sử dụng ra ngoài, và nạp một viên đạn mới. Thuật
**Súng máy Vickers** hoặc súng Vickers là tên loại súng máy làm mát bằng nước với cỡ nòng 0,303 inch (7,7 mm). Súng máy Vickers được dùng cho quân đội Anh và khối Thịnh vượng chung
**SG-43 Goryunov** là loại súng máy hạng trung của Liên Xô, được thiết kế, sản xuất và sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Súng sử dụng loại đạn súng trường 7.62×54mmR.
nhỏ|Một khẩu [[súng ngắn bán tự động SIG Pro]] **Súng** là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**RPK** là súng máy cá nhân do kĩ sư Mikhail Kalashnikov của Liên Xô thiết kế, súng được đưa vào biên chế Quân đội Xô Viết năm 1962 để nhằm mục đích thay thế DP
**MG-42** (_Maschinengewehr 42_ – Súng máy kiểu năm 1942) là súng máy đa năng hạng nhẹ dùng đạn cỡ 7,92×57mm do Đức Quốc xã thiết kế và phát triển, được chấp nhận trang bị cho
nhỏ|Từ trên xuống dưới: [[B40|RPG-2, Karabiner 98k, Mosin Nagant M44, CKC, AK47.]] phải|nhỏ|Một người nữ lính [[Hải quân Hoa Kỳ|Hải quân Mỹ đang dùng khẩu Mk 18 Mod 1 carbine bắn vào một mục tiêu.]]
**M240** là tên gọi chính thức của Quân đội Hoa Kỳ cho khẩu FN MAG (Mitrailleuse d`Appui Général) - một loại súng sử dụng dây băng đạn, dùng cỡ đạn 7.62x51mm NATO, cơ cấu trích
**Súng máy hạng nhẹ kiểu 95**(tiếng Trung Quốc: _95式班用機槍_; 95 thức ban dụng cơ thương), phổ biến với tên mã **QBB-95**, là một loại súng máy hạng nhẹ có thiết kế băng đạn gắn phía
**Súng trường M14** có tên chính thức là **United States Rifle, 7.62 mm, M14**, là một khẩu súng trường bán tự động sử dụng loại đạn 7,62×51mm NATO (.308 Winchester) của Mỹ. Nó từng là súng
**Súng máy hạng nhẹ M249** (Light Machine Gun, 5.56 mm, M249)**,** trước đây được gọi là **Súng máy cấp tiểu đội M249** (M249 Squad Automatic Weapon - SAW), là một biến thể của FN Minimi dành
nhỏ|[[Súng trường Henry, loại súng trường đầu tiên sử dụng công nghệ đòn bẩy.]] **Súng trường** (tiếng Anh: _Rifle_) là một loại súng cá nhân gọn nhẹ với nòng súng được chuốt rãnh xoắn, có
**Fucile Mitragliatore Breda Modello 30** là loại súng máy hạng nhẹ được quân đội Ý sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Breda 30 được biết đến nhiều như một loại vũ khí
nhỏ|Khẩu [[AGS-17 của Liên Xô]] nhỏ|Khẩu [[AGS-30 của Nga]] nhỏ|Khẩu [[MK 19 của Hoa Kỳ]] **Súng phóng lựu tự động** là loại súng phóng lựu có thể phóng liên tiếp các loại đạn nổ với
**RP-46** là loại súng máy hạng nhẹ do A.I. Schily, P.P. Polyakov và A. Dubinin cùng thiết kế dựa trên khẩu Degtyarov DP được Liên Xô đưa vào sản xuất năm 1946. ## Thiết kế
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**L1A1 Self-Loading Rifle,** còn được gọi là **SLR** (Self-Loading Rifle), chỉ định **C1A1** với Quân đội Canada **(C1)** hay ở Mỹ là **"mẫu inch" FAL,** là một phiên bản Anh của Súng trường chiến đấu
**Súng máy Bren**, thường được biết với tên gọi **Bren Gun** (hay đơn giản là **Bren**). Nó là một loại súng máy hạng nhẹ, súng trung liên được quân đội Anh sử dụng trong suốt
**M1918 Browning Automatic Rifle** là loại súng máy hạng nhẹ được quân đội Mỹ sử dụng trong Thế chiến 1 (cuối cuộc chiến), Thế chiến 2 và nhiều cuộc chiến khác sau đó nữa. Đây
**ZB vz. 26** là loại súng máy hạng nhẹ do Tiệp Khắc phát triển trong những năm 1920. Súng này do Vaclav Holek thiết kế và nhà máy Zbrojovka Brno sản xuất. Nó đã giành
**Uk vz. 59** (tiếng Séc: **U**niverzální **k**ulomet **vz**or 59) là loại súng súng máy đa chức năng được phát triển bởi nhà máy sản xuất vũ khí Zbrojovka Vsetin tại Tiệp Khắc vào giữa những
phải|Đầu đạn K tiêu chuẩn (7.9x57mm IS), lõi xuyên bằng thép lộ ra ở phía sau tạo thành đuôi đầu đạn thuôn. phải|Súng trường chống tăng [[PTRS-41 của Liên Xô.]] phải|Súng trường chống tăng [[Pz.B.38/39|Pz.B.39
**ZB vz. 37** hay **ZB-53** là loại súng máy hạng trung sử dụng loại đạn 7.92x57mm. Nó được phát triển bởi Václav Holek và được sản xuất tại Zbrojovky Brno ở Tiệp Khắc từ năm
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
**Súng trường chống tăng Boys** (Tiếng Anh:Boys anti-tank rifle, thường được gọi ngắn gọn là "Boys") là súng trường chống tăng 13,9mm do Anh Quốc thiết kế. Súng có 3 phiên bản chính: Mk.I nguyên
**Browning M1917** là loại súng máy hạng nặng của Mỹ do John Browning thiết kế, đây là loại súng máy được sử dụng khá rộng rãi bởi quân đội Mỹ trong thế chiến thứ nhất
**RPK-16** là một phiên bản hiện đại hóa của súng máy hạng nhẹ RPK-74. Nó được thiết kế để thay thế cho dòng súng RPK-74 cũ sử dụng loại đạn 5,45x39mm. RPK-16 có thiết kế
Xe tăng hạng trung [[T-34|T-34-85 của Liên Xô]] **Tăng hạng trung** là một phân loại xe tăng, đặc biệt phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ hai thể hiện sự dung hòa giữa xe
**Heckler & Koch MG4** hay **HK MG4** là loại súng máy hạng nhẹ sử dụng loại đạn 5.56x45mm NATO với cơ cấu nạp dây đạn được chế tạo bởi công ty Heckler & Koch của
**Trung đoàn 141**, Sư đoàn 312, Quân đoàn 12 là một trong những đơn vị bộ binh chủ lực cấp trung đoàn được thành lập sớm nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. ##