✨ZU-23-2
ZU-23-2 "Sergei", hay ZU-23, là một loại pháo phòng không bán cố định, có chế độ bắn tự động, nòng đôi cỡ nòng 23 mm do Liên Xô nghiên cứu và chế tạo. ZU là viết tắt của Zenitnaya Ustanovka (Tiếng Nga: Зенитная Установка) - nghĩa là pháo phòng không. Định danh của GRAU cho loại pháo này là 2A13.
Lịch sử phát triển
ZU-23-2 được thiết kế vào cuối những năm 1950. Nó được thiết kế với mục đích chống lại những khí cụ bay ở độ cao không quá 2.5 km, có thể lắp trên các phương tiện cơ giới một cách dễ dàng, có khả năng hạ nòng tấn công các mục tiêu mặt đất trong phạm vi 2 km và chống lại những cuộc tấn công tầm thấp bất ngờ bởi trực thăng. Năm 1955, Phòng thiết kế chế tạo khí cụ thành phố Tula (KBP) giới thiệu phiên bản pháo phòng không đơn nòng ZU-1 và nòng đôi ZU-14. ZU-1 bị dừng nghiên cứu trong khi khẩu ZU-14 lại được tiếp tục phát triển, và sau này ZU-14 được phát triển thành ZU-23-2.
Ở Liên Xô, có khoảng 140.000 khẩu pháo loại này được sản xuất. ZU-23 cũng được sản xuất dưới giấy phép bởi Bulgaria, Ba Lan, Ai Cập và Trung Quốc.
Phiên bản tự hành hóa của ZU-23-2 là pháo ZSU-23-4 Shilka, với 2 khẩu ZU-23-2 được dẫn đường bằng thiết bị quang học và radar RPK-2.
Miêu tả sơ lược
ZU-23-2 (2A13) là một pháo tự động nòng kép 23mm có tính bán cố định. Trong trạng thái cố định, mâm pháo có một trục quay giúp xạ thủ có thể quay pháo suốt 360 độ. Pháo có thể triển khai vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu trong vòng 30s và có thể vừa hành tiến vừa bắn trong trường hợp khẩn cấp. Pháo được ngắm và bắn hoàn toàn bằng thủ công, trang bị một kính ngắm quang học ZAP-23 cùng một thước ngắm cơ khí. Nó cũng được lắp đặt một ống ngắm thẳng T-3 sử dụng trong trường hợp tấn công bộ binh hoặc xe thiết giáp ở mặt đất. Đạn pháo được đặt trong các thùng đạn và được nạp qua hai băng tải ở hai bên. Mỗi thùng đạn chứa 50 viên và cung cấp cho 2 nòng riêng biệt của khẩu pháo. Khói súng tạo ra trong quá trình chiến đấu được thoát ra ở nòng súng. Bảng dưới đây liệt kê một số loại đạn cỡ 23 mm khác nhau được sử dụng bởi súng ZU-23-2:
Lịch sử hoạt động
ZU-23-2 đi vào hoạt động trong Quân đội Xô Viết vào năm 1960. ZU-23-2 thường đặt lắp đặt trên xe tải với cả hai vai trò phòng không và phòng thủ mặt đất. Nó có thể lắp được trên xe bọc thép MT-LB và các xe bọc thép đa dụng khác. Đặc biệt là phiên bản giá ba chân lắp trên xe BTR-D thả dù. Hàng loạt các ưu điểm như: rẻ tiền, dễ sử dụng, dễ bảo trì, dễ nâng cấp, dễ sửa khi bị hỏng, vững chắc, bền bỉ, dẻo dai, ổn định, mạnh mẽ, đầy uy lực, ... đã giúp ZU-23-2 vẫn còn được duy trì hoạt động trong Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga và hơn 20 quân đội khác nữa trên thế giới.
Từ năm 1965, Liên Xô bắt đầu viện trợ với số lượng lớn pháo ZU-23-2 cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Pháo 23 mm và pháo 37 mm 61-K 37 mm đã trở thành xương sống của lực lượng phòng không tầm thấp và cận trung của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Được cho là nguyên nhân gây nên 83% tổn thất cho Không quân Hoa Kỳ bởi lực lượng phòng không, ZU-23 đã bắn rơi gần 100 máy bay và trực thăng của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là trên tuyến đường mòn Trường Sơn..
Trong Chiến tranh Afghanistan (1978–1992), ZU-23 được Quân đội Xô Viết dùng để phòng không và cả phòng thủ mặt đất ở nơi đóng quân. Trong Chiến tranh Afghanistan (2001–14), lực lượng nổi dậy bao gồm Taliban và những đồng minh phía bắc sử dụng ZU-23-2, SA-7 và FIM-92 Stinger, làm vũ khí phòng không chính của mình.
Trong những năm 1983, ZU-23M được các sử dụng bởi các lực lượng nổi dậy như Hezbollah ở Liban nhằm chống lại Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và liên quân gìn giữ hòa bình ở Li băng. Vào thời điểm đó, phát ngôn viên của lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ cho rằng việc sử dụng pháo 23 mm hạ nòng tấn công bộ binh là vi phạm các hiệp ước quốc tế về chiến tranh. Tuy nhiên vào năm 1988, thiếu tá Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. W. Hays Parks đã phủ nhận cho rằng những lý lẽ này là vô căn cứ.
ZU-23-2 được sử dụng rộng rãi ở cả hai phe trong Nội chiến Libya (2011) và hay thường thấy trên các xe bán tải. Loại vũ khí này cũng được cả hai bên sử dụng trong Nội chiến Syria. Một vài clip Youtube đã cho thấy trực thăng của quân chính phủ Syria (SAA) bị lực lượng đối lập dùng ZU-23 trên xe bán tải bắn rơi.
Các biến thể và các bản nâng cấp
Liên bang Nga
thumb|ZU-23-2 ở Vitebsk, [[Belarus]] *ZU-23M* - Phiên bản nâng cấp, thiết kể bởi cục cơ khí kỹ thuật Nudelman (KB Tochmash). Có hệ thống ngắm bắn mới (với máy ngắm laser đo xa, vô tuyến, máy ngắm quang học, kính ngắm vô tuyến hồng ngoại sử dụng ban đêm) và hệ thống điều khiển điện tử. Mâm pháo có lắp đặt thêm 2 vị trí lắp tên lửa vác vai ở sau ghế của pháo thủ, có thể lắp các loại tên lửa như 9M32M "Strela-2M" hoặc 9M39 "Igla". ZU-23M1 - Phiên bản phổ biến nhất trong Quân đội Nga, phát triển bởi liên doanh xí nghiệp cơ khí và các thiết bị đặc biệt Podolsky “PEMZ Spetsmash” và “NTC Elins”, được xuất khẩu bởi Rosoboronexport. Giống như ZU-23M, nó được nâng cấp hệ thống ngắm bắn và giá tích hợp lắp đặt tên lửa "Igla", hay còn gọi với tên 9M342 "Igla-S". Tổ hợp pháo-tên lửa phòng không tích hợp có tên gọi là ZU-23/ZOM1 (thường được gọi một cách không chính xác là “ZU-23/30M1”). NÓ bao gồm một module pháo tự động (strel’bovoj modul) ZU-23/ZOM1-SM và module tên lửa (puskovoj modul) ZU-23/ZOM1-PM với 4 tên lửa vác vai 9M333 “Strela-10”; bộ điều khiển từ xa (modul distantsionnogo upravleniya) ZU-23/ZOM1-MU và máy phát điện AB-1.Tùy theo yêu cầu của khách hàng, hệ thống có thể cung cấp thiếu hệ thống module -SM (ZU-23/ZOM1-1), -PM (ZU-23/ZOM1-2), (ZU-23/ZOM1-3), hoặc cả module -PM và -MU (ZU-23/ZOM1-4).
Ba Lan
thumb|Star 266 lắp trên xe ZUR-23-2KG *ZU-23-2 - Phiên bản gốc được sản xuất dưới giấy phép bởi Ba Lan ở nhà máy Zakłady Mechaniczne "Tarnów" S.A. từ năm 1972. **ZUR-23-2S "Jod" - Phiên bản nâng cấp với kính ngắm quang học đời mới GP-1R và giá phóng kép có thể lắp đặt 2 tên lửa "Strela-2M", sử dụng từ năm 1988 ****Kobra - Module nhỏ lẻ dành cho phòng không tầm ngắm và tầm thấp. Một khẩu đội điển hình bao gồm 6 pháo (thường là mẫu ZUR-23-2KG), 6 bộ máy điều khiển poprad, một máy chỉ huy WD-95 và radar MMSR. **ZU-23-2M "Wróbel"** - Phiên bản Hải quân, sử dụng hệ thống điều khiển bằng thủy lực, sản xuất từ năm 1979. ([http://pvo.guns.ru/images/poland/zu-23-2mr_.jpg picture]). ***"Hibneryt"** - Các phiên bản ZU-23-2 nói chung của Ba Lan lắp đặt trên xe tải Star 266, xe tải có vài thay đổi để có thể chứa đạn, bộ điều khiển điện tử của pháo cũng có nhiều thay đổi và sử dụng nguồn điện từ ắc quy tích hợp trên xe.
Cộng hòa Séc
*ZU-23-2M2 Vlara ([http://forum.valka.cz/attachments/12663/ZU-Vlara2.jpg picture]).
Cộng hòa Slovakia
*ZU 23M - Phiên bản hiện đại hóa với bộ điều khiển điện từ, phát triển bởi công ty EVPU. Phiên bản này được EVPU và công ty Punj Lloyd Ltd của Ấn Độ giới thiệu cho quân đội Ấn Độ.
Ai Cập
*ZU 23-M - Phiên bản sản xuất dưới giấy phép với tênSH-23M tại nhà máy kỹ thuật Abu Zaabal **Sinai 23 - Tương tự Nile 23, với súng và tên lửa lắp đặt trong tháp pháp TA-23E, dẫn bắn bằng radar RA-20S băng E. Các tên lửa có thể lắp cùng giá bao gồm Saqr Eye, FIM-92 Stinger.
Phần Lan
*23 ItK 95 - Phiên bản nâng cấp dựa trên 23 ItK 61, thiết kế bởi Instrumentointi Oy and Vammas Oy. Phiên bản nâng cấp bao gồm thiết bị ổn định súng bằng con quay hồi chuyển, APU và thiết bị laser đo xa. ([http://www.irandefence.net/attachment.php?attachmentid=59546&d=1286043775]).
Trung Quốc
*Type 85/YW 306 - Phiên bản được Norinco copy hoàn toàn từ ZU-23-2, đồng thời, Norinco cũng kiêm luôn là nhà sản xuất chính thức. Vài nguồn thường ghi nó là Type 85. **Đại Nỏ - Tiếng Hán giản thể Shengong (Deity Bow, 神弓). Đây là tên của một hệ thống phòng không bao gồm 1 khẩu đội 8 pháo Type 85 và xe cung cấp điện. **Type 95 SPAAA - (PGZ95) - Phiên bản tự hành của Type 87.
Iran
- Mesbah-1 - Phiên bản pháo cao tốc tự động tầm gần (Close-in weapon system) với 4 khẩu ZU-23. Giới thiệu lần đầu năm 2010.
- ZU-23-6 (tên chưa chính thức) - Tương tự Mesbah-1 nhưng chỉ gồm 3 súng 6 nòng thay vì 8 nòng. Đây được coi là phiên bản hiện đại hóa của Mesbah-1.
Các quốc gia sử dụng
-
- 60
-
- 150
-
- 128
-
- Type 85, Type 87(25183mmB,not23152mm)
-
- 8
-
- Type 80
-
- 650 khẩu được nâng cấp với radar dẫn đường
-
- 198, lắp đặt trên xe MAN 4520 6x6.
-
- 10
-
- 1,100
-
- 24
-
- 200
-
- 523
-
- 16
-
- 800
-
- 4 hệ thống ZUR-23-KG-I, một phần của tổ hợp "Kobra" AD TNI-AU + 18 Type 80 một phần của tổ hợp Giant Bow II AD TNI-AD
-
- Sử dụng phiên bản của Ba Lan và Bulgaria lắp trên xe MT-LB
-
- 2
-
- 3 ZU-23-2MR Wróbel II
-
- 1,000+, lắp trên xe bọc thép M-113
-
- 450
-
- 160
-
- Lắp trên xe BTR-D
-
- 150
-
- 380 Type 87
-
- 20
-
- 20
- Được Đông Đức Chuyển giao
-
- 5,200
-
- 230
-
- 444 ZUR-23-2 và vài phiên bản dành cho Hải quân
-
- 50
-
- 36
-
- 40
-
- 5
-
-
- 300 ZU-23ZOM 1-4
-
- Khoảng hơn 300 tổ ZU-23-2 do Việt Nam mua trực tiếp từ Liên Xô (Nga) từ thời Chiến tranh Việt Nam cho đến nay. Ngoài ra, vài phiên bản khác của ZU-23-2 được Việt Nam đặt mua của Cộng hòa Séc, Slovakia, Ba Lan thì được lắp trên các tàu CSB.
-
- 200
-
- 5
Các quốc gia từng sử dụng
-
- Chuyển giao cho các quốc gia thành viên.
(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e