✨Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)

Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)

Quan Âm Thị Kính là tên thông tục một sử thi Hán Nôm ba hồi xuất hiện hậu kỳ trung đại, có sức ảnh hưởng nhất định tới nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam hiện đại. Đây cũng là tác phẩm có lượng tục bản và chuyển thể chỉ lớn sau Truyện Kiều.

Lịch sử

Tác giả

Từ lâu Quan Âm Thị Kính được coi là của tác giả "khuyết danh", nhưng hiện có hai giả thuyết: Theo nghiên cứu của Hoa Bằng, thì tác giả của truyện thơ này là Nguyễn Cấp (? - ?), một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỷ 19. Ông là người ở thôn Thượng, xã Nguyên Khiết, huyện Thọ Xương; nay thuộc Hà Nội. Sau khi đỗ Giải nguyên năm Quý Dậu (1813), ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến chức Tri phủ Thiên Trường (1829). Sau vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ Nguyễn Công Trứ bấy giờ đang làm Tán tương quân vụ ở Lạng Giang che chở, nên ông đến ẩn tu tại đây. Tác phẩm Quan Âm Thị Kính được ông sáng tác vào lúc cuối đời, đã thể hiện phần nào tâm sự u uất của ông. Ngoài ra,trong gia phả tại chùa Bổ Đà ghi, sư cụ Nguyễn Đình Cấp dựa vào phong cảnh trang Tiên Lát (chùa Bổ Đà) để mô tả ngôi chùa trong cốt truyện Quan Âm Thị Kính. Theo Gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh do Dương Xuân Thự cung cấp, thì truyện thơ Quan Âm Thị Kính do Đỗ Trọng Dư (1786 - 1868) sáng tác. Ông là người xã Đại Mão, huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc; nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đỗ Hương cống năm 1819, ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến chức Tri phủ Quốc Oai. Ở đây, ông bị kiện là thu tiền của dân không hợp lệ nên bị bãi chức (vì xin một chức vị trong phủ không được, mà một nho sinh đã làm đơn kiện ông), phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông soạn Quan Âm Thị Kính để tỏ nỗi lòng. Năm 1876, con ông là cử nhân Đỗ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948, thì tác phẩm (bản bằng chữ Quốc ngữ) được in ra (trên bản in đề rõ là của Đỗ Trọng Dư).

Vấn đề tác giả, giáo sư Nguyễn Huệ Chi nêu quan điểm: :Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai người, Nguyễn Cấp vả Đỗ Trọng Dư đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính... Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng Dư là người soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện còn là vào năm Tự Đức 21 (1868) .

Tác phẩm

Căn cứ văn bản giáo sư Dương Quảng Hàm giới thiệu tại lần ấn hành duy nhất đến nay của Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội năm 1961, thì truyện gồm 786 câu lục bát.

  • Quan Âm chính văn tân truyện (觀音正文新傳): Ấn bản chưa rõ năm, chất lượng khá nhất, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Đại học Yale lưu hành bản chép lại.
  • Quan Âm chú giải tân truyện (觀音註觧新傳): Thịnh Văn Đường tàng bản năm 1886, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia Việt Nam lưu hành bản chụp vi tính.
  • Quan Âm tống tử bản hạnh (觀音送子本行): Quán Văn Đường tàng bản năm 1894, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Đại học Yale giữ một bản chép lại. Tổng cộng 9 ấn bản, mấy cuốn mất trang.

Nội dung

Truyện cốt tả đức từ bi nhẫn nhục của bà Thị Kính để lý giải vì sao bà hóa Quan Âm. Tượng Quan Âm an tọa, chùa Sẻ, [[Hiệp Hạ, Hà Nội.]]

  • Hồi I: Thị Kính phải oán lần đầu và đi tu (câu 1→370) Xưa có sư ông đắc đạo sắp thành Phật, nhưng lỡ "thoáng tà tâm" vào nữ sắc mà hỏng mất. Đức Thích Ca bèn thử lần chót, mới cho đầu thai làm cô Thị Kính con Mãng ông nghèo hèn nhu nhược nhất làng. Sau Thị Kính được gia đình gả cho anh học trò Thiện Sĩ con họ Sùng khá nhất làng bên. Một hôm, Thiện Sĩ học khuya, mệt quá mà thiếp đi. Thị Kính đang ngồi khâu áo thì thấy cằm chồng có cái râu mọc ngược, vớ dao toan cắt đi. Chồng giật mình hốt hoảng tỉnh giấc, nghi ngờ vợ hãm hại mình, bèn hô hoán. Sùng ông, Sùng bà trong buồng chạy ra, gán ngay cho thị tội sát chồng hòng kiếm nàng dâu con nhà phú quý hơn. Thị Kính bị đánh mắng rồi đuổi về với cha mẹ, phẫn chí mới giả trai xin vào chùa Vân tu hành, được ban pháp danh Kính Tâm. Có một dị bản khác, sau khi gả Thị Kính cho Thiện Sĩ cũng là lúc Mãng ông qua đời, từ đó Thị Kính mồ côi cả cha lẫn mẹ. Trước lúc có ý định giả trai để nương nhờ nơi cửa Phật, Thị Kính toan treo cổ tự vẫn mà không thành.

Phật tổ

Thị Kính

Thiện Sĩ

Mãng ông

Sùng ông

Sùng bà

  • Hồi II: Thị Kính phải oán lần hai và hoàn tục (câu 371→692) Vùng ấy có ả Thị Mầu con phú ông sẵn tính lẳng lơ. Một hôm đội oản lên chùa, Mầu nom tiểu Kính Tâm rồi thốt mê, nhưng dầu ả ra sức ghẹo mà sư vẫn làm ngơ. Vì đưa tình không được, ả sinh quẫn, mới mắc tội ăn nằm với tên nô. Việc đến tai hào lý, làng bèn điệu Mầu ra đình tra khảo, cũng để lấy cái phần bắt vạ ăn khoán. Nhân đấy, ả đổ riệt cho tiểu Kính Tâm. Kính Tâm bị chức dịch phạt đòn, ép phải nuôi lấy đứa con rơi. Sư cụ vì sợ điều tiếng mà đuổi Kính Tâm khỏi tam quan.

Tiểu Kính Tâm

Thị Mầu

Thằng nô

Phú ông

Mẹ đốp

Xã trưởng

Đồ điếc

Bói mù

Hương câm

Sư cụ

  • Hồi III: Thị Kính tẩy oán và hóa kiếp (câu 693→786) Đẻ được đứa con trai xong, Thị Mầu đem vứt trước cổng chùa. Tiểu Kính Tâm nhận về nuôi, hàng ngày đi xin sữa cho nó ăn. Được ba năm khi đứa trẻ chập chững, Kính Tâm lao lực quá mà mất, lúc hấp hối còn kịp để một bức thư cho cha mẹ. Xem thư, người nhà mới hay những oan khiên, bèn xin chùa lập đàn chay cầu đảo. Lúc liệm thi hài, tăng ni mới vỡ lẽ Kính Tâm là phận gái. Đức Thích Ca xét Kính Tâm đã tu thành chính quả, bèn cho siêu thăng làm Quan Âm, tục gọi Quan Âm Thị Kính.

Tiểu Kính Tâm

Thị Mầu

Mãng ông

Sư cụ

Phật tổ

Đứa bé

Ảnh hưởng

Tục bản

nhỏ|275x275px|Trích đoạn chèo "Thị Màu lên chùa" trong vở chèo [[Quan Âm Thị Kính (vở chèo)|Quan Âm Thị Kính]] Quan Âm Thị Kính vốn thuộc nhóm tác phẩm được soạn cho mục đích biểu diễn sân khấu, nhưng do điều kiện xã hội Việt Nam từ Pháp thuộc về trước chưa có điều kiện dàn dựng sân khấu quy mô lớn, nên các nhà trò thường chỉ chọn diễn vài phân cảnh hoặc thuần túy là màn độc thoại của nhân vật nào. Mãi đến thập niên 1950, trong bối cảnh nghệ thuật sân khấu được đặt lên hàng ưu tiên phát triển văn hóa cấp quốc gia, mới có các đoàn nghệ thuật tại địa phận Việt Nam Cộng hòa dựng nguyên tuồng, ghép thêm lời nhạc và giai điệu cách tân. Đặc biệt, vở chèo Oan bà Thị Kính của ban Phụng Minh được chính phủ thâu băng phát cho các đại sứ quán hải ngoại làm quà đãi khách quốc tế và quảng bá văn hóa cổ truyền. Tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thập niên 1960, lão nghệ sĩ Trùm Thịnh đã gia công chắp các tích trò và câu ca phổ biến nhất thành vở chèo Quan Âm Thị Kính hoàn chỉnh. Ngay sau đó, trường Ca kịch Dân tộc đưa vở này cùng vở Tấm Cám vào giáo trình, buộc mọi sinh viên ban chèo phải biết diễn xuất trước khi thành nghề.

Thập niên 1990, lần đầu tiên Nhà hát Kịch Việt Nam cải biên Quan Âm Thị Kính sang thoại kịch. Nội dung là phần kế cốt truyện truyền thống, nhưng lược bỏ cái chết của tiểu Kính Tâm và mượn các yếu tố tác phẩm Lan và Điệp. Nguyên rằng, Thiện Sĩ hối hận, bèn bổ đi khắp nơi tìm vợ. Khi gặp tiểu Kính Tâm rồi, chàng nhận ra và thuyết phục, song Kính Tâm nhất mực cự tuyệt. Một hôm, Thị Mầu tình cờ quen Thiện Sĩ dưới gốc đa đầu làng, bèn mê mẩn và xin cha cho chàng ở rể. Đến hôm cưới, sư cụ dắt đứa trẻ nay đà lớn khôn tới dự, Mầu nhận ra con mình, sự việc vỡ lở và Thiện Sĩ hủy hôn bỏ về nhà. Ít lâu sau, tiểu Kính Tâm vì nuôi con "tu hú", cảm mạo mà mất, hóa Quan Âm. Sùng Thiện Sĩ thi đỗ tiến sĩ, được bổ tri huyện, bèn sai người cất một ngôi chùa thờ Quan Âm Thị Kính.

Cũng trong thập niên 1990, Nhà hát Tuổi Trẻ dựa theo những yếu tố phổ biến của Quan Âm Thị Kính để dựng một vở kịch lấy bối cảnh sau Khởi nghĩa Yên Bái đến trước thềm Cách mạng Tháng Tám, nhân vật ni cô là chiến sĩ cách mạng cải trang, có mối tình với một anh con nhà chài tên Bờ, người này cắt máu ăn thề với một nghĩa sĩ Yên Bái rồi bỏ nhà đi làm cách mạng, rốt cuộc cứu ni cô khỏi bị kẻ xấu giết oan. Đến thập niên 2000, đạo diễn Lê Hùng lại đặt hàng tác giả Lê Chí Trung chắp bút vở Giải oan Thị Mầu. Thoại kịch đầy yếu tố trào lộng sâu cay, trong đó, khắc họa mối thâm tình Thị Mầu - anh nô, tính cách láu táu của mẹ đốp, thói trưởng giả tham tàn của phú ông cùng những kệch cỡm lố lăng của bọn hào lý. Nhân vật tiểu Kính Tâm chỉ xuất hiện với vai trò phụ diễn và làm nổi bật cá tính nhân vật Thị Mầu. Ngoài ra tại Mỹ, tác phẩm được ông Phạm Quân Phan chuyển soạn opera và được Hiệp hội Sáng tạo Nghệ thuật và Âm nhạc Việt Mỹ (Vietnamese American Society for Creative Arts and Music, VASCAM) bảo trợ trình diễn lại Musco Center thuộc Viện Đại học Chapman tại quận Cam, Nam Cali tháng 3 năm 2018.

  • Quan Âm (đĩa nhạc 1930, hãng Asia)
  • Quan Âm Thị Kính (phim truyện 1956, kịch bản và đạo diễn Nguyễn Thành Châu, Mỹ-Vân điện-ảnh công-ti)
  • Thị Kính (phim truyện thập niên 1980, Hãng phim truyện Việt Nam)
  • Ăn vạ (phim hài Tết Xuân Hinh 2007, đạo diễn Phạm Đông Hồng, Công ty cổ phần Nghe nhìn Thăng Long)
  • Nỗi oan Thị Mầu (hài kịch 2006-7, biên kịch Nguyễn Ngọc Ngạn, Paris By Night 85)

Nhận xét

GS. Nguyễn Huệ Chi: :Nhân vật Thị Kính từ lâu đã trở thành một điển hình sắc sảo cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, nơi tập trung chồng chất mọi nỗi bất công, oan nghiệt. Và thông qua cuộc đời Thị Kính, bức tranh ngang trái đầy mâu thuẫn của xã hội phong kiến thời tác giả sống, hiện lên thật rõ nét... :Thêm vào đó, bút pháp viết truyện của tác giả thật già dặn, lời thơ nhiều chỗ điêu luyện, chải chuốt (châm biếm hóm hỉnh, như khi nói về Thị Mầu; dồi dào cảm xúc như khi nói về cái chết của Thị Kính) nên càng tăng sức phổ biến của tác phẩm (câu thành ngữ "Oan như Thị Kính" quen thuộc của người Việt đã chứng tỏ sức sống của câu chuyện)... Tuy nhiên, triết lý "nhẫn nhục" cũng đã làm cho truyện thiếu đi một sức phản kháng cần thiết. GS. Thanh Lãng: :Tư tưởng trong Quan Âm Thị Kính là tư tưởng Phật giáo. Đời là một bể khổ mà mỗi người là một con thuyền vô trạo, một cánh bèo trôi giạt ở bến mê. Đời Thị Kính là một thí dụ. Đời buồn là thế, chúng sinh muốn hết khổ thì phải tìm đến con đường tu hành. Do vậy, luân lý của truyện có thể tóm lại ở câu: :Nhân sinh thành Phật dễ đâu, :''Tu thân, cứu khổ, rồi sau mới thành. :Về mặt nghệ thuật, từ đầu đến cuối, truyện rất ly kỳ và mạch lạc, có những đoạn gây hồi họp, thắc mắc... Nhưng đi vào chi tiết, ở một đôi chỗ có hơi máy móc, như đoạn tả nỗi oan mưu giết chồng... Câu văn Quan Âm Thị Kính là thứ văn tôn giáo, thanh đạm và trang nghiêm. Tuy nhiên, có nhiều đoạn tả cảnh, tả tình rất tinh tế tỏ ra cái tài của tác giả. Nói tóm lại, văn ở đây tuy không bay bướm nhưng không phải là thứ văn tầm thường, nó đáng liệt vào những tác phẩm có giá trị . *GS. Phạm Thế Ngũ: :Truyện Quan Âm Thị Kính chính là một lời cảnh báo cho những người chọn con đường thanh nhàn khi đi tìm tới đạo Phật. Để đắc đạo, người ta phải chỉ chịu khổ hạnh, mà còn phải chịu những oan ức bất công nữa... Như Thị Kính, oan uổng đến vậy mà không hề oán trách trời và số phận, chỉ lấy từ tâm mà chiến thắng cảnh ngộ... :''Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa, :''Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu. :Ngoài ra ở truyện, ta cũng có thể nhận ra cái thuyết "tài sắc phong trần". Thị Kính bị oan ức, bị quấy rầy, chẳng qua vì nàng có tài sắc hơn người: :''Trời sinh tài sắc làm chi, :''Hoa thơm bướm cũng có khi bận lòng... :Về hình thức, tình tiết truyện có chỗ gò ép, như việc hiểu lầm của Thiện Sĩ, đã gây ra cái oan thứ nhất. Cái oan thứ hai với Thị Mầu được xây dựng khéo hơn... Văn của truyện thường mộc mạc, giản dị, chịu ảnh hưởng của văn Kiều.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan Âm Thị Kính** là tên thông tục một sử thi Hán Nôm ba hồi xuất hiện hậu kỳ trung đại, có sức ảnh hưởng nhất định tới nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam
**Quan Âm Thị Kính** là một trong bảy vở chèo cổ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Các vở chèo kinh điển của nghệ thuật chèo được lưu giữ lại đến
**Truyện thơ Nôm** hay **Truyện Nôm** thể thơ tiếng Việt viết bằng chữ Nôm (thường là thơ lục bát) để kể chuyện (trần thuật). Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản
nhỏ|phải|Tượng [[Phật Mẫu|Phật bà Quan Âm ở chùa Vạn Phước, Bình Tân]] Tượng Quan Âm tại [[Phổ Đà sơn|Phổ-đà Sơn]] nhỏ|phải| [[Quán Âm Phật Đài (Bạc Liêu)|Tượng Quán Thế Âm cao 11 m ở Bạc
**_Hoa tiên_** (chữ Nho: 花箋), còn có tên là **_Hoa tiên ký_** (花箋記) hay **_Đệ bát tài tử Hoa tiên diễn âm_** (第八才子花箋演音), là một truyện dài bằng thơ Nôm của Nguyễn Huy Tự ra
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),
Các đoàn [[chèo, nhà hát chèo Việt Nam]] **Đoàn Chèo Phú Thọ** (tồn tại: 1959 - 2018) nguyên là đơn vị hoạt động nghệ thuật, đóng tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Đây là
nhỏ|402x402px|Bia Viên Dương Quán khắc năm Hưng Trị thứ 2 năm 1589, đây là tấm bia cổ đời Mạc hiếm có ở Việt Nam. Đây là một Đạo Quán cổ nay đã biến thành chùa,
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
Liền anh, liền chị hát quan họ trên thuyền rồng tại [[Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội]] Các huyện có làng quan họ tại [[Bắc Ninh và Bắc Giang]] **Dân ca Quan họ** là một trong
**Chùa Bổ Đà**, còn được gọi là **chùa Bổ**, **chùa Tam Giáo**, còn có tên chữ là **Tứ Ân tự** (四恩寺) là một ngôi chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn),
**_Đoạn trường tân thanh_** (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là **_Truyện Kiều_** (chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem
Chạm trổ [[Quan Âm tại Trung Quốc. Nhiều cánh tay của Bồ tát tượng trưng cho khả năng cứu giúp chúng sinh vô tận]] Tượng Quan Âm Cam lồ ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
**_Sơ kính tân trang_** (_Câu chuyện mới về lược và gương_) là một truyện thơ do danh sĩ Phạm Thái sáng tác tại Việt Nam ở đầu thế kỷ 19. ## Giới thiệu Truyện thơ
THÔNG TIN SẢN PHẨM SIRO PQA HEN SUYỄN (CHAI TO 250ML)Theo y học cổ truyền Hen phế quản(đông y gọi là Hen suyễn) thuộc phạm vi của chứng háo suyễn, đàm ẩm, là một bệnh
THÔNG TIN SẢN PHẨM SIRO PQA HEN SUYỄN (CHAI TO 250ML)Theo y học cổ truyền Hen phế quản(đông y gọi là Hen suyễn) thuộc phạm vi của chứng háo suyễn, đàm ẩm, là một bệnh
Mối **quan hệ ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ - Israel** được thiết lập tháng 3 năm 1949 khi Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đa số người Hồi giáo đầu tiên (trước Iran vào
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
Dưới đây là **danh sách chương trình truyền hình đã và đang được phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam**, được chia theo kênh và trạng thái phát sóng. Danh sách này không bao
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
:_Bài này viết về thành phố Frankfurt am Main. Về các địa danh Frankfurt khác xin xem tại Frankfurt (định hướng)._ **Frankfurt am Main** (tiếng Việt: **Frankfurt trên sông Main**; phiên âm: "Phrăng-phuốc" hay "Phran-phuốc"),
**Phú Thọ** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Phú Thọ có diện tích là 9.361 km² (xếp thứ 15); dân số
Hình ảnh tái hiện một buổi trình diễn nhạc cụ truyền thống cổ của Trung Quốc (nhã nhạc cung đình [[nhà Thanh)]] nhỏ|Nhóm nghệ sĩ [[người Nạp Tây hòa tấu nhạc cụ cổ truyền]] **Những
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|275x275px|Các nghệ sĩ [[Nhà hát Chèo Việt Nam biểu diễn ở bờ Bắc sông Bến Hải, năm 1956)]] Một cảnh trong vở "Tiếng hát đại ngàn" của Đoàn chèo 2 - [[Nhà hát Chèo Ninh
**Kuroshitsuji** (黒執事, くろしつじ) là một loạt manga được viết và minh họa bởi Toboso Yana. Loạt manga này ra mắt vào ngày 16 tháng 9 năm 2006 đăng trên tạp chí truyện tranh hàng tháng
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
[[Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư]] Điện Tam Thế ở [[Chùa Bái Đính]] [[Đền Trần (Nam Định)|Đền Trần ở Nam Định]] [[Chùa Địch Lộng ở Gia Viễn]] [[Đền Trần Thương ở Hà Nam]]
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Lạc Long Quân** (chữ Hán: 貉龍君), tên húy là **Sùng Lãm** (崇纜), là một vị vua truyền thuyết của lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì cha ông là Kinh
Trong thơ ca, Nhịp là cấu trúc tiết tấu cơ bản của một bài thơ hay các dòng trong một bài thơ. Nhiều hình thức truyền thống thơ ca yêu cầu một Nhịp thơ đặc
**Thơ** là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức logic nhất định tạo
**Đài Truyền hình Việt Nam**, được biết đến rộng rãi với tên gọi **VTV** (viết tắt của từ ), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã
Ở động vật có vú, **âm đạo** (tiếng Latinh: _vagina_, tiếng Hy Lạp: _kolpos_) là phần ống cơ, đàn hồi của đường sinh dục nữ. Ở người, âm đạo kéo dài từ tiền đình đến
nhỏ|phải|Bún bò Huế, một trong những nét đặc trưng của ẩm thực xứ Huế **Ẩm thực Huế** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý chế biến, trang trí, phong cách
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**_Xạ điêu anh hùng truyện_** (giản thể: 射雕英雄传; phồn thể: 射鵰英雄傳; bính âm: _Shè Diāo Yīng Xióng Zhuàn_) là bộ phim truyền hình do Hãng ảnh thị Thượng Hải (上海唐人电影制作有限公司) của Trung Quốc và Mediacorp
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
**Quán Thế Âm** (Tiếng Phạn: अवलोकितेश्वर nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian") là một vị Bồ-tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong
**Thơ Việt Nam** là cách gọi chung những thi phẩm do người Việt Nam sáng tác. ## Ca dao _Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ
**Thuận Thành** là một thị xã nằm ở phía nam sông Đuống thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Trung tâm thị xã nằm tại phường Hồ. Trên địa bàn thị xã có Chùa Dâu là
John F. Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ, bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 khi đang trên đoàn xe hộ tống đi qua Dealey Plaza tại Dallas, Texas. Kennedy,
**Võ Thị Duyên** (chữ Hán: 武氏緣, 20 tháng 6 năm 1828 - 3 tháng 6 năm 1902) hay còn gọi **Lệ Thiên Anh hoàng hậu** (儷天英皇后) là chính thất của Nguyễn Dực Tông Tự Đức,
**Báo Ấp Bắc và Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang** (tiếng Anh: **Ap Bac Newspaper and Tien Giang Radio - Television Station**), là cơ quan báo chí - truyền thông trực thuộc tỉnh
**Quần đảo Pitcairn** (; tiếng Pitkern: **'), tên gọi chính thức: **Pitcairn, Henderson, Ducie và Oeno''', là một nhóm gồm bốn hòn đảo núi lửa ở phía Nam Thái Bình Dương tạo thành Lãnh thổ