✨Thơ Việt Nam

Thơ Việt Nam

Thơ Việt Nam là cách gọi chung những thi phẩm do người Việt Nam sáng tác.

Ca dao

Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca. Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán-Việt. Trong Văn học dân gian, tập II, Đinh Gia Khánh có chú thích; ::Trong Kinh thi, phần Ngụy Phong, bài Viên hữu có câu: "Tâm chi ưu hữu, ngã ca thả dao" - hay "Lòng ta buồn, ta ca và dao".

Sách Mao truyện viết: ::"Khúc hợp nhạc viết ca, đô ca viết dao" - hay "Khúc hát có nhạc đệm theo lời gọi là ca, còn hát trơn thì gọi là dao".

Trước đây người ta còn gọi ca daophong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại. Ca dao có những câu bốn chữ, năm chữ, sáu tám hay bảy sáu tám, đều có thể "ngâm được nguyên câu", không cần tiếng đệm như người ta ngâm thơ vậy. Chẳng hạn hai câu sáu tám: :Đường vô xứ Nghệ quanh quanh :Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Hay: :Tốt gỗ hơn tốt nước sơn :Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người

Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của con người. Tình yêu của người lao động biểu hiện trong ca dao về nhiều mặt: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất được, yêu lao động, yêu thiên nhiên. Ca dao còn là một biểu hiện tư tưởng đấu tranh trong cuộc sống xã hội, trong khi tiếp xúc với thiên nhiên. Chính vì thế, ca dao còn phản ánh đời sống tình cảm, đời sống vật chất của con người, ý thức lao động sản xuất v.v. trong tình hình xã hội, kinh tế, chính trị dưới thời đại lịch sử sinh sống. Chẳng hạn sự kiềm chế của tứ đức, tam tòng trong giới phụ nữ bật lên những câu than: :Thân em như hạt mưa sa :Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

Do số phận họ phần lớn là do người khác định đoạt mà không có quyền tự chủ, sự chua xót vắt nước thành những câu vừa hài hước vừa đau xót: :Lấy chồng chẳng biết mặt chồng :Đêm nằm mơ tưởng, nghĩ ông láng giềng

Tình yêu nam nữ ở nông thôn là một thứ tình yêu liên quan đến ruộng đồng, đến xóm làng. Những câu như tự nhắc mình, hoặc nhắc người mình yêu: :Anh đi anh nhớ quê nhà :Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương :Nhớ ai dãi nắng dầm sương :Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao!

Cuộc sống nặng nhọc, con trâu đi trước, cái cày đi sau cũng phản ánh trong ca dao:

:Trâu ơi, tao bảo trâu này :Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta :Cấy cày vốn nghiệp nông gia, :Ta đây trâu đấy, ai mà quản công...

Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, giản dị và tươi tắn. Chúng giản dị như lời nói thường, nhẹ nhàng, gọn gàng, song không kém phần chải chuốt, đầy tính miêu tả những tình cảm sâu sắc. Một cảnh buồn: :Sóng sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc, :Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên...

Hay nỗi nhớ bịn rin: :Gió vàng hiu hắt đêm thanh :Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về :Mảnh trăng đã trót lời thề :Làm chi để gánh nặng nề riêng ai!

Một cô gái, trong chế độ tảo hôn, chưa vấn tóc gọn đã về nhà chồng, anh chồng dửng dưng coi vợ như một đứa trẻ. Nhưng khi cô ta vừa đến tuổi, thì tình hình khác hẳn:

:Lấy chồng tử thủa mười lăm :Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng tôi :Đến năm mười tám, đôi mươi :Tối nằm dưới đất, chồng lôi lên giường :Một rằng thương, hai rằng thương :Có bốn chân giường, gãy một, còn ba!...

Ca dao còn được dùng như một hình thức truyền kinh nghiệm dễ nhớ, chẳng hạn kinh nghiệm nấu ăn: :Con gà cục tác: lá chanh :Con lợn ủn ỉn: mua hành cho tôi :Con chó khóc đứng khóc ngồi: :Bà ơi! đi chợ mua tôi đồng riềng.

Những thể ca dao cổ điển

Thể phú

Phú có nghĩa là trình bày, diễn tả, chẳng hạn như nói về người, về việc hay vật gì thì trình bày, diễn tả cho người ta hình dung được người, việc, hay vật ấy. Chẳng hạn: :Đường lên xứ Lạng bao xa :Cách một trái núi với ba quãng đồng :Ai ơi! đứng lại mà trông :Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ. :Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ :Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy phong...

Hay chống đối với dâm ô, giã man của giai cấp phong kiến thống trị: :Em là con gái đồng trinh :Em đi bán rượu qua dinh ông nghè :Ông nghè sai lính ra ve.. :"Trăm lạy ông nghè, tôi đã có con!". :- Có con thì mặc có con! :Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.

Thể tỉ

Tỉ là so sánh. Ở thể này, câu ca không nói thẳng như ở thể Phú, mà lại mượn cái khác để so sánh, ngụ ý hay gửi gắm một tâm sự. Chẳng hạn: :Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây :Như con chèo bẻo xa cây măng vòi

Hay: :Gối mền, gối chiếu không êm :Gối lụa không mềm bằng gối tay em.

Hoặc: :Ăn thì ăn những miếng ngon :Làm thì chọn việc cỏn con mà làm

Thể hứng

Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn, thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình riêng của mình: :Trên trời có đám mây vàng :Bên sông nước chảy, có nàng quay tơ :Nàng buồn nàng bỏ quay tơ, :Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành...

Hay: :Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa, :Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng...

Lục bát

Theo Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Can Mộng, người viết cuốn Ngạn ngữ phong dao, đã từng viết: :_Văn vần nước ta phôi thai từ ngạn ngữ, rồi đến phong dao thì thành điều, thành chương, có thể ngâm nga được. Văn lục bát, hay song thất sau này đều từ ở đấy cả_.

Lịch sử sưu tập và biên soạn tục ngữ, ca dao, và dân ca chỉ mới được bắt đầu từ khoảng hai trăm năm trở lại đây. Hiện tại, bài thơ lục bát cổ xưa nhất có niên đại rõ ràng còn lưu giữ lại đến nay là "Cảm tác" của Nguyễn Hy Quang được sáng tác năm 1674. Vào nửa cuối thế kỷ 18, Trần Danh Án (hiệu Liễu Am) đã sưu tập và biên soạn Quốc phong giải tràoNam phong nữ ngạn thi. Các soạn giả trên đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với thơ Quốc Phong trong Kinh thi của Trung Quốc.

Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện những sách chữ nôm sưu tập tục ngữ, ca dao. Sang đầu thế kỷ 20, Việt Nam mới có những sách sưu tập những di sản này bằng chữ quốc ngữ.

Như vậy có thể nói, lục bát bắt nguồn từ trong tục ngữ và ca dao mà ra.

Như trên đã nói, "lục" (sáu), "bát" (tám), hay còn gọi là thể thơ sáu tám (6, 8) ám chỉ đến độ dài của hai câu thơ: một câu gồm 6 chữ và một câu gồm 8 chữ. Câu sáu chữ đi trước và câu tám chữ theo sau. Vần rơi vào những chữ in đậm. Chẳng hạn trong truyện Kiều, lúc Sở Khanh rủ Kiều chạy trốn khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà: :Đêm thu khắc lậu canh tàn :Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương :Lối mòn cỏ nhợt mùi sương :''Lòng quê đi một bước đường một đau.

Thơ lục bát thường là nguồn cảm hứng thơ đầu tiên, gây ảnh hưởng nhiều cho những nhà thơ Việt Nam từ những ngày còn bé. Có thể qua những lời ru bằng ca dao, bằng các câu ca cửa miệng người lớn dùng. Chẳng hạn:

::Cái ngủ mày ngủ cho ngoan ::Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về ::Bắt được con cá rô trê ::Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn

Do nhạc tính mềm mại của lục bát, loại thơ này còn thấy được dùng trong các bài thơ như một phần chuyển giọng, từ gồ ghề sang mượt mà, êm ái như trong trạng thái than thở hay ca ngợi. Chẳng hạn trong bài thơ Tiếng Hát Sông Hương của Tố Hữu:

::Trên dòng Hương-giang ::Em buông mái chèo ::Trời trong veo ::Nước trong veo ::Em buông mái chèo ::Trên dòng Hương-giang ::Trăng lên trăng đứng trăng tàn ::Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng

Hay Trần Đăng Khoa trong trường ca Khúc hát người anh hùng

::Cô Bưởi lắng nghe tiếng gà rừng rực ::Thấy sức triệu người hồi sinh trong lồng ngực ::Và cô đi ::Bên đám cháy ::Chưa tàn

::Lửa hát rằng: ::Quê tôi - những cánh rừng hoang ::Chính trong cơn bão đại ngàn - tôi sinh ::Nuôi tôi trong bếp nhà gianh ::Ủ là một chấm - thổi thành biển khơi...

Lục bát biến thể

Biến thể trong thơ lục bát là những câu thơ bị đổi cách gieo vần. Ví dụ như: Qua cầu ngả nón trông cầu Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu. Hoặc như: Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Thơ Đường Việt Nam

Kết quả của lịch sử giao tiếp văn hóa phương bắc, đặc biệt là thời cực thịnh của thơ Trung Quốc là thể thơ phát triển thời nhà Đường, thơ Đường đã thâm nhập vào văn hóa Việt thành thơ Đường Việt Nam. Đầu tiên, thơ Đường Việt Nam được viết bằng chữ Hán, rồi dần được viết bằng chữ Hán Nôm và chữ thuần Việt.

Phong trào Thơ mới

Phong trào Thơ tự do

Có lẽ bắt đầu từ bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi trên Trung Bắc Tân văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo:

:::Ve sầu kêu ve ve :::Suốt mùa hè :::Đến kỳ gió bấc thổi :::Nguồn cơn thật bối rối.

Lối thơ không niêm, không luật, không hạn chế số chữ trong câu, không hạn chế số câu lại có vẻ thích ứng với đông đảo quần chúng hơn.

Lối thơ này đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Phục Hưng, như trong các tác phẩm của William Shakespeare. Chẳng hạn trong bi kịch Hamlet, khi chàng gọi mẹ mình vào, mời bà ngồi (Những câu tiếng Việt chỉ là phần dịch tạm thời):

Queen. :::Have you forgot me? :::(''Ngươi quên ta là ai rồi chăng?) Ham. :::No, by the rood, not so: :::(Không, tôi thề bằng thánh giá, không phải vậy:) :::You are the queen, your husband's brother's wife; :::(Bà là nữ hoàng, vợ người em nhà vua, chồng bà) :::And,--would it were not so!--you are my mother. :::(Mà dù có không phải thế đi chăng nữa, bà vẫn là mẹ của tôi) Queen. :::Nay, then, I'll set those to you that can speak. :::(Đúng, vậy ta sẽ chỉ phép những gì ngươi được nói.) Ham. :::Come, come, and sit you down; you shall not budge; :::(Lại đây, lại đây, và hãy ngồi xuống; bà hãy ngồi im, không nhúc nhích) :::You go not till I set you up a glass :::(Bà sẽ không được ra khỏi đây, cho đến khi nào tôi mời bà một cốc nước) :::Where you may see the inmost part of you. :::(Trong đó bà sẽ nhìn thấy đáy lòng của bà)

Có quan điểm cho rằng thơ tự do đặt tầm quan trọng về cách đọc thơ, hay sự bố trí theo chiều dọc của tờ giấy hơn, và nhịp điệu của thị giác mới là phần quan trọng. Chẳng hạn: :Đến thời Phục hưng, thơ không vần tiếng Anh với kỹ thuật vắt dòng, phá bỏ cách đọc ngừng lại ở cuối dòng. Đọc từ dòng trên vắt xuống dòng dưới theo cú pháp văn phạm, rõ chữ, và câu liền lạc. Sau này, vào đầu thế kỷ 20, thơ tự do cũng theo cách đọc như thế. Nhưng giữa thơ không vần và thơ tự do vẫn có sự khác biệt khi đọc. Với loại thơ tự do dùng kỹ thuật dòng gãy, trình bày dòng ngắn dài, để tạo nhịp điệu thị giác trên mặt giấy, khi đọc lên, không đọc theo dòng mà theo câu, mục đích chỉ để nghe rõ âm thanh của từng chữ. Nhịp điệu thị giác mới là phần quan trọng, qua đó, người đọc lần theo tiến trình phân tích để tìm ra ý nghĩa bài thơ. Như vậy, để hiểu một cách toàn vẹn bài thơ loại này, người đọc phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, âm thanh của chữ, nhịp điệu của câu dòng và ý nghĩa trong tiến trình phân tích. Với loại thơ trình diễn, gần với sự ứng tác thì người nghe dễ bị lôi cuốn bởi khả năng trình diễn và cách đọc của người đọc thơ. Như vậy cách đọc của thơ tự do không thể hiểu theo nghĩa của thơ truyền thống, nhịp điệu thị giác và cách trình diễn quan trọng hơn phần âm thanh của tiếng nói.

Chữ tự do ở đây có thể hiểu là sự thoát khỏi sự gò bó khắt ke của các luật thơ. Nhà thơ muốn chạy theo cảm hứng, theo tình cảm, lấy chữ để diễn tả nội tâm thay vì để cho con chữ, để cho những luật lệ kìm kẹp mà phải đổi chữ, đổi ý, biến bài thơ thành quái thai của tình cảm của họ. Phan Khôi viết trong Phụ nữ Tân Văn - số 132: :.. lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là dễ ức.

Chẳng hạn như bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về:

:::Năm vừa rồi :::Chàng cùng tôi :::Nơi vùng giác mộ :::Trong gian nhà cỏ

:::Tôi quay tơ :::Chàng ngâm thơ :::Vườn sau oanh giục giã :::Nhìn ra hoa đua nở

:::Dừng tay tôi kêu chàng... :::Này, này! Bạn! Xuân sang :::Chàng nhìn xuân mặt hớn hở :::Tôi nhìn chàng, lòng vồn vã...

:::Rồi ngày lại ngày :::Sắc màu: phai :::Lá cành: rụng :::Ba gian: trống

:::Xuân đi :::Chàng cũng đi :::Năm nay xuân còn trở lại :::Người xưa không thấy tới

:::Xuân về.

Rồi sau này [http://thovn.net/viewarthor.asp?athor=30 Hữu Thỉnh] trong bài [http://thovn.net/viewpoem.asp?poem=160 Thơ viết ở biển] :

:::Anh xa em :::Trăng cũng lẻ :::Mặt trời cũng lẻ :::Biển vẫn cậy mình dài rộng thế :::Vắng cánh buồm một chút :::::::đã cô đơn

:::Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn :::Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím :::Sông chẳng đi đến đâu :::::::nếu không đưa em đến

:::Dù sóng đã làm anh :::::Nghiêng ngả :::::::Vì em

Như vậy có thể nói, thơ tự do thiên về tính nhạc, tính hình tượng, đặt nặng nội dung tình cảm cần truyền đạt hơn là hình thức, thể loại. Thơ tự do là thơ được thoát thân, thả cánh bay cao như thể bay cao được, trải rộng như có thể bao trùm không hạn chế, không gò bó. Với thơ tự do, có thể nói rằng: nếu bạn yêu thơ, có khả năng viết câu, dùng từ thì đều có thể làm thơ được.

Truyện Kiều

Chinh phụ ngâm

Trần Tế Xương

Nguyễn Khuyến

Bà Huyện Thanh Quan

Hồ Xuân Hương

Chơi thơ

Lẩy thơ

Lẩy thơ thường được người ta biết đến qua lẩy Kiều, là một cách chơi thơ phổ biến trong dân gian

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thơ Việt Nam** là cách gọi chung những thi phẩm do người Việt Nam sáng tác. ## Ca dao _Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ
**Ngày Thơ Việt Nam** là ngày hội tôn vinh thành tựu thơ ca Việt Nam, được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng âm lịch hàng năm theo quyết định của Hội nhà văn Việt
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Kịch thơ Việt Nam** là một thể loại trong loại hình văn học kịch, mà lời thoại là thơ. Thể loại này ra đời vào năm 1934, phát triển mạnh, rồi gần như đã khép
**Người Thổ** hay còn gọi là **người Cuối** hay **người Mọn** là một nhóm dân tộc Việt-Mường có vùng cư trú chính ở phần phía tây tỉnh Nghệ An, Việt Nam; được công nhận là
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
**Tiếng Thổ**, còn được gọi là **tiếng Cuối** hay **tiếng Hung** ở Lào, là một cụm phương ngữ, là ngôn ngữ của 70.000 người Thổ ở Việt Nam cùng vài nghìn người ở Lào (chủ
Dưới đây là **danh sách biểu trưng tỉnh thành và vùng lãnh thổ của Việt Nam**. Mỗi tỉnh thành và vùng lãnh thổ đều có một bộ nhận diện địa phương chính thức đặc trưng
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
nhỏ|[[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] nhỏ|[[Chùa Dơi, Sóc Trăng]] nhỏ|[[Chùa Cầu, Hội An]] nhỏ|[[Chùa Phước Điền, An Giang]] **Chùa Việt Nam** (gọi thông tục là _Chùa chiền_) là các ngôi chùa trên lãnh thổ Việt Nam.
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
Miền Bắc Việt Nam **Miền Bắc Việt Nam** là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía bắc nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
nhỏ|phải|[[Tằm tơ|Tằm nhộng ở Việt Nam]] **Giống vật nuôi Việt Nam** chỉ về các giống vật nuôi có nguồn gốc, xuất xứ từ Việt Nam cũng như một số giống đã được nội địa hóa
nhỏ|Giống [[gà tây nhà thường được nuôi ở huyện An Phú tỉnh An Giang]] **Giống vật nuôi ngoại nhập** hay **giống vật nuôi nhập nội** hay **giống vật nuôi nhập khẩu** hay còn gọi là
nhỏ|267x267px|Lãnh thổ [[Đàng Trong và "Hạ Đàng Trong", năm 1867]] **Miền Nam Việt Nam** là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời
**_Thi nhân Việt Nam_** là tên cuốn sách vừa là hợp tuyển vừa là nghiên cứu, phê bình về phong trào thơ mới Việt Nam, do hai anh em nhà văn Hoài Thanh và Hoài
Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước diễn ra từ năm 1951 cho tới nay, bao gồm cả tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển, xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|[[Kim quy]] **Sinh vật huyền thoại Việt Nam** gồm các loài vật trong các câu chuyện thần thoại Việt Nam, trong truyền thuyết, câu chuyện cổ tích cho đến những câu chuyện dân gian, những
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
**Địa lí Việt Nam** là các đặc điểm địa lí của nước Việt Nam, một quốc gia nằm ở bên phía đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á. Tổng
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
Một số đặc trưng của nghệ thuật Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ như đàn bầu, tam thập lục, đàn tứ,
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Nông thôn Việt Nam** là một khái niệm chung dùng để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, nơi người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam, cho đến
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu đời và là một xã hội đã hình thành theo chế độ nhà nước sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á. ## Hậu kỳ
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
Lãnh thổ Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam gồm nhiều miền địa lý khác nhau, đây là kết quả của quá trình Nam tiến kéo dài suốt 1.000 năm trong lịch sử Việt
Một đòn đá trong làng võ Tân Khánh Bà Trà. **Võ thuật Việt Nam** là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
Lễ hội làng Vân Côn - Hoài Đức - Hà Nội Lễ hội đua bò 7 núi An Giang **Lễ hội Việt Nam** là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
thế=Ngọ Môn - Huế|nhỏ|Ngọ Môn, lối vào [[Hoàng thành Huế, nhìn từ phía điện Thái Hòa nhìn ra|317x317px]] **Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam** là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất
nhỏ|[[Quốc lộ 1 – Tuyến quốc lộ chính ở Việt Nam đoạn giữa Phú Yên và Khánh Hòa]] Tại Việt Nam, một đường được gọi là **quốc lộ** khi nó là đường nối liền thủ
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Bão Yagi**, tại Việt Nam là **bão số 3 năm 2024**, hình thành từ một áp thấp nhiệt đới ở ngoài khơi Philippines, đi vào biển Đông và nhanh chóng phát triển lên cấp siêu
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (còn gọi là _"Cờ đỏ sao vàng"_ hay _"Cờ Tổ quốc"_), nguyên gốc là quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được
[[Phở - món ăn mang tính biểu tượng quốc tế của ẩm thực Việt Nam]] **Ẩm thực Việt Nam** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là