Philippe I (23 tháng 5 năm 1052 – 29 tháng 8 năm 1108) là vua nước Pháp, trị vì từ năm 1060 tới 1108.
Philippe I là một thành viên của nhà Capet. Philippe đăng quang vua Pháp ngày 23 tháng 5, 1059 tại nhà thờ ở Reims, trở thành đồng trị vì với vua cha Henri I. Henri I băng hà vào một năm sau đó, trong Philippe I chỉ mới 7 tuổi nên người mẹ của Philippe là Anna của Kiev cùng với Baldwin V, Bá tước Fanders làm nhiếp chính cho tới năm 1066, khi Philippe I đã 14 tuổi
Năm 1108, Philippe I chết tại Melun, và được chôn cất ở tu viện tại Saint-Benoit-sur-Loire thay vì Saint Denis Basilica.
Đầu đời
Philippe được sinh ra c. 1052 tại Champagne-et-Fontaine, con trai của Henry I và vợ Anne xứ Kiev. Không bình thường vào thời điểm đó ở Tây Âu, tên của ông có nguồn gốc từ Hy Lạp, do mẹ ông đặt cho ông. Mặc dù ông lên ngôi vua khi mới 7 tuổi, cho đến năm 14 tuổi (1066), mẹ ông giữ vai trò nhiếp chính, là nữ hoàng đầu tiên của Pháp từng làm như vậy. Baldwin V của Flanders cũng đóng vai trò đồng nhiếp chính.
Cai trị
Sau cái chết của Baldwin VI xứ Flanders, Robert người Frisia chiếm giữ Flanders. Vợ của Baldwin, Richilda, đã yêu cầu sự trợ giúp từ Philippe, người đã bị Robert đánh bại trong trận Cassel năm 1071.
Philippe kết hôn lần đầu với Bertha của Hà Lan vào năm 1072. Mặc dù cuộc hôn nhân đã tạo ra người thừa kế cần thiết, Philippe lại yêu Bertrade de Montfort, vợ của Fulk IV, Bá tước Anjou. Ông từ chối Bertha (cho rằng bà quá béo) và kết hôn với Bertrade vào ngày 15 tháng 5 năm 1092. Năm 1094 sau thượng hội đồng Autun, lần đầu tiên ông bị đại diện của Giáo hoàng, Hugh of Die, rút phép thông công; sau một thời gian dài im lặng, Giáo hoàng Urban II lặp lại vạ tuyệt thông tại Hội đồng Clermont vào tháng 11 năm 1095. Nhiều lần lệnh cấm được dỡ bỏ khi Philippe hứa sẽ chia tay Bertrade, nhưng ông luôn quay lại với cô; năm 1104 Philippe đã sám hối công khai và hẳn đã giữ kín sự liên quan của mình với Bertrade. Tại Pháp, nhà vua bị Giám mục Ivo của Chartres, một luật gia nổi tiếng, phản đối.
Philippe đã bổ nhiệm Alberic làm Cảnh sát trưởng đầu tiên của Pháp vào năm 1060. Phần lớn thời gian trị vì của ông, giống như triều đại của cha ông, đã được dành để dập tắt các cuộc nổi dậy của các chư hầu thèm khát quyền lực của ông. Năm 1077, ông làm hòa với William the Conqueror, người đã từ bỏ ý định chinh phục Brittany. Năm 1082, Philippe I mở rộng lãnh thổ của mình bằng việc sáp nhập Vexin, để trả đũa cuộc tấn công của Robert Curthose nhằm vào người thừa kế của William, William Rufus. Sau đó vào năm 1100, ông nắm quyền kiểm soát Bourges. Philippe đã mở rộng demesne hoàng gia bằng cách kết hợp các tu viện của Saint-Denis và Corbie.
Chính tại Hội đồng Clermont đã nói ở trên, cuộc Thập tự chinh đầu tiên đã được phát động. Lúc đầu, Philippe không ủng hộ cá nhân vì mâu thuẫn của ông với Urban II. Tuy nhiên, anh trai của Philippe, Hugh của Vermandois, là một người tham gia chính.
Qua đời
Philip qua đời trong lâu đài Melun và được chôn cất theo yêu cầu của ông tại tu viện Saint-Benoît-sur-Loire - chứ không phải ở St Denis trong số các tổ tiên của ông. Ông được kế vị bởi con trai ông, Louis VI, tuy nhiên, người kế vị không phải là không có tranh cãi. Theo Trụ trì Suger:
… Vua Philip mỗi ngày một yếu đi. Vì sau khi bắt cóc Nữ bá tước Anjou, anh ta không thể đạt được điều gì xứng đáng với phẩm giá hoàng gia; bị tiêu hao bởi ham muốn với người phụ nữ mà anh ta chiếm được, anh ta hoàn toàn buông xuôi để thỏa mãn niềm đam mê của mình. Vì vậy, anh ta mất hứng thú với các công việc của nhà nước và, quá thư giãn, không quan tâm đến cơ thể của mình, mặc dù nó rất đẹp và được trang bị tốt. Điều duy nhất duy trì sức mạnh của nhà nước là sự sợ hãi và tình yêu dành cho con trai và người kế vị của ông. Khi gần sáu mươi tuổi, ông thôi làm vua, trút hơi thở cuối cùng tại lâu đài Melun-sur-Seine, trước sự chứng kiến của [vị vua tương lai] Louis... Họ khiêng thi thể trong một đám rước lớn đến nhà quý tộc tu viện St-Benoît-sur-Loire, nơi vua Philip muốn được chôn cất; có những người nói rằng họ đã nghe từ chính miệng ông ấy rằng ông ấy đã cố tình chọn không được chôn cất cùng với tổ tiên hoàng gia của mình trong nhà thờ St. Denis vì ông ấy đã không đối xử tốt với nhà thờ đó như họ, và bởi vì trong số rất nhiều các vị vua cao quý, lăng mộ của chính ông ta sẽ không được tính nhiều.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Philippe I** (23 tháng 5 năm 1052 – 29 tháng 8 năm 1108) là vua nước Pháp, trị vì từ năm 1060 tới 1108. Philippe I là một thành viên của nhà Capet. Philippe đăng
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
**Juana I của Navarra** (, , ; 14 tháng 1 năm 1273 – 31 tháng 3 hoặc 2 tháng 4 năm 1305) là nữ vương của Navarra và là nữ bá tước của Champagne từ
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Louis X của Pháp** (; tháng 10 năm 1289 – 5 tháng 6 năm 1316), hay **Luis I của Navarra** (), còn có biệt danh là **le Hutin** (_Kẻ cứng đầu_), là vua Navarra từ
**Louis VIII Sư tử** (5 tháng 9 năm 1187 – 8 tháng 11 năm 1226) là vua Pháp từ năm 1223 đến năm 1226. Ông là một vị quân chủ thuộc vương tộc Capet. Louis
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Jeanne của Pháp hay Jeanne của Valois** (tiếng Pháp: _Jeanne de France/Jeanne de Valois_; tiếng Tây Ban Nha: _Juana de Francia/Juana de Valois_; tiếng Anh: _Joan of France/Joan of Valois_; sinh 13 tháng 12 và
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Robert của Pháp và Navarra** ( 1296/1297 - 1308), là con út của quốc vương Philippe IV của Pháp và nữ vương Juana I của Navarra. Tuy chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Charles xứ Valois** (; 12 tháng 3 năm 1270 – 16 tháng 12 năm 1325), là con trai thứ ba của Philippe III của Pháp và Isabel của Aragón, là một thành viên của Nhà Capet
**Claude của Pháp hay Claude xứ Breatagne** (tiếng Pháp: _Claude de France_; 13 tháng 10 năm 1499 - 20 tháng 7 năm 1524) là một Vương hậu của Vương quốc Pháp với tư cách là
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640 - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
**Ferdinand Philippe, Công tước xứ Orléans** (_Ferdinand Philippe Louis Charles Henri Joseph_; 03 tháng 09 năm 1810 - 13 tháng 07 năm 1842) là con trai cả của Vua Louis Philippe I của Pháp và
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Louis XI le Prudent** (3 tháng 7 năm 1423 – 30 tháng 8 năm 1483), được gọi là Thận trọng, là một quốc vương của Nhà Valois, người cai trị nước Pháp từ năm 1461
**Edward I của Anh** (17/18 tháng 6 1239 – 7 tháng 7 1307), còn được gọi là **Edward Longshanks** và **Kẻ đánh bại người Scots** (Latin: _Malleus Scotorum_), là Vua của Anh từ 1272 đến
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
_Dona_ **Francisca của Brasil** (2 tháng 8 năm 1824 – 27 tháng 3 năm 1898) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là con gái của Hoàng đế Dom Pedro I của Brasil, (người
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**María Amalia của Tây Ban Nha, María Amalia của Orléans hay María Amalia de Orleans y Borbón** (tên đầy đủ: María Amalia Luisa Enriqueta tháng 8 năm 1851 – 9 tháng 11 năm 1870) là
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
**Maria Amalia của Napoli và Sicilia** hoặc **Maria Amalia của Hai Sicilie** (; ; 26 tháng 4 năm 1782 – 24 tháng 3 năm 1866) là Vương hậu cuối cùng của chế độ quân chủ
**Louis-Antoine của Pháp hay** **Louis-Antoine của Artois** (6 tháng 8 năm 1775 - 3 tháng 6 năm 1844, **Thái tử Viennois** và **Công tước của Angoulême**) là thành viên hoàng tộc Pháp. Là con trai
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Louis XVIII** (Louis Stanislas Xavier; 17 tháng 11 năm 1755 - 16 tháng 9 năm 1824), có biệt danh là "le Désiré", là vua của Vương quốc Pháp từ năm 1814 đến năm 1824, bị
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Charles VI của Pháp** (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là **Charles le Bienaimé** hay **Charles le Fol** hoặc **le Fou**) là vị vua Pháp từ 1380
**Marie của Pháp** (18 tháng 9 năm 1344 - 15 tháng 10 năm 1404) là con thứ sáu và là con gái thứ ba của Jean II của Pháp và Jutta của Bohemia. ## Hôn
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Charles IV của Pháp và Carlos I của Navarra** (18/19 tháng 6 năm 1294 - 1 tháng 2 năm 1328) là vua Pháp và Navarra và Bá tước xứ Champagne từ 1322 tới khi qua
**Vương nữ Clémentine của Orléans** (tiếng Pháp: Clémentine d'Orléans) (3/06/1817 - 16 tháng 02 năm 1907), Thân vương phi xứ Sachsen-Coburg và Gotha và Công tước phu nhân xứ Sachsen, là con gái út của
**María Cristina của Tây Ban Nha, María Cristina của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tên đầy đủ: _María Cristina Francisca de Paula Antonieta_ ; 29 tháng 10 năm 1852 – 28 tháng
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**Louise Marie của Orléans** (3 tháng 4 năm 1812 – 11 tháng 10 năm 1850), tên đầy đủ là _Louise Marie Thérèse Charlotte Isabelle_, là _Vương nữ của Orléans_ và là Vương hậu Bỉ. Bà
**Louis-Philippe của Bỉ** (24 tháng 7 năm 1833 - 16 tháng 5 năm 1834) là con trai lớn của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là Vương nữ Louise Marie của