nhỏ|Một khẩu pháo 122mm
Pháo hay đại pháo, đại bác, hỏa pháo (tiếng Anh: artillery), là tên gọi chung của các loại hỏa khí tập thể có cỡ nòng từ 105mm trở lên, có tầm bắn trên 10 km và nặng trên 1 tấn. Pháo có uy lực dùng trong các lực lượng vũ trang nhằm tiêu diệt sinh lực, phương tiện của đối phương, tạo màn khói và chiếu sáng trận địa. Có quan niệm sai lầm phổ biến rằng cỡ nòng lớn luôn được phân loại là đại pháo hay đại bác, tuy nhiên trên thực tế có những loại súng cối có cỡ nòng lên đến 160mm, bởi chúng có tầm bắn không xa, chỉ dưới 5 km và nặng vài trăm kg nên chỉ được phân loại là súng cối. Pháo là một cấu thành của hệ vũ khí quân dụng và là cấu thành chính của một binh chủng rất quan trọng trong quân đội có tên là binh chủng pháo binh.
Các loại pháo ban đầu chủ yếu dùng để xuyên thủng tường thành, công sự trong cuộc vây hãm, dẫn đến việc sử dụng các loại pháo công thành hạng nặng, ít cơ động. Khi kỹ nghệ cải thiện, người ta đã chế tạo các loại pháo dã chiến nhẹ, cơ động hơn trên chiến trường. Sự phát triển này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay; pháo tự hành hiện đại là vũ khí có tính cơ động cao, đa năng, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng hỏa lực của các quân đội trên thế giới.
Trong tiếng Việt, pháo có tục xưng là "đại bác". Cách gọi này bắt nguồn từ việc đọc sai âm Hán-Việt của chữ "pháo" (礮) trong từ "đại pháo" (大礮). Chữ "礮" là chữ hình thanh, hình bàng "thạch" (石) gợi nghĩa của chữ, thanh bàng "bác" (駮) gợi âm đọc. Một số người căn cứ theo thanh bàng "bác" (駮) đã ngộ nhận âm đọc của chữ "礮" là "bác", từ đó dẫn đến đọc sai 大礮 là "đại bác".
Lịch sử
thumb|left|Pháo thủ Đại Nam thời [[nhà Nguyễn]]
Lần sử dụng pháo với đạn đẩy bằng thuốc nổ trên chiến trường đã được ghi lại lần đầu là vào ngày 28 tháng 1 năm 1132 khi tướng Hàn Thế Trung của Nam Tống dùng thang mây và hoả pháo để đánh thành Kiến Châu (nay là Kiến Âu). Loại vũ khí nhỏ thô sơ này đã du nhập vào vùng Trung Đông rồi đến châu Âu vào thế kỷ 13.
Pháo xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ 13. Lịch sử hình thành pháo gắn liền với lịch sử phát minh ra thuốc súng. Những khẩu pháo đầu tiên được chế tạo bằng đồng, nòng nhẵn, bắn đạn bằng đá hoặc bằng gang hình cầu. Ban đầu pháo được dùng để công thành, mở đường tấn công cho bộ binh hoặc kỵ binh.
Đến thế kỷ 15 xuất hiện thêm pháo bắn đạn ria để bảo vệ lực lượng phòng ngự.
Ở thế kỷ 16, pháo bắn đạn sắt đã bắt đầu phổ biến. Đã bắt đầu xuất hiện các khẩu pháo nòng ngắn, đạn đi theo đường cầu vồng và pháo nòng dài đặt trên thuyền chiến.
Sang thế kỷ 17, pháo được sử dụng rộng rãi trong cả tấn công lẫn phòng ngự. Trong cuộc chiến đầu tiên của Trịnh – Nguyễn phân tranh, tháng 3 năm 1627, quân Chúa Trịnh (Trịnh Tráng) tuy chủ động tấn công nhưng không thể nào chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Chúa Nguyễn (Chúa Sãi), dẫn đến bất phân thắng bại. Thấy thế, chúa Nguyễn bèn đem đại pháo kiểu Bồ Đào Nha ra bắn. Kinh hoàng đến nỗi quân Trịnh hoảng sợ bỏ chạy bạt mạng, làm hai tướng Trịnh là Nguyễn Khải và Lê Khuê đều phải chịu thua bỏ chạy.
Vào thế kỷ 18, Vallière, người Pháp đã dùng từ cannon để chỉ tất cả những loại súng không xách tay được. Trong giai đoạn này cũng xuất hiện pháo có khương tuyến cho phép bắn xa hơn 2 - 2,5 lần, và chính xác hơn đến 5 lần so với pháo nòng nhẵn.
Đến thế kỷ 19 xuất hiện pháo nạp đạn bằng khoá nòng từ phía sau. Kỹ thuật chế tạo thuốc súng ngày càng tân tiến, với việc chế tạo thuốc súng không khói (1884) trọng lượng đạn pháo đã tăng thêm 20%, vận tốc đầu nòng (sơ tốc đạn) tăng 40%. Đầu thế kỷ 20 xuất hiện thêm nhiều loại pháo mới như súng cối, lựu pháo và pháo cao xạ.
Siêu pháo 380 mm của Đế quốc Đức trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, sáu cường quốc Áo-Hung, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Pháp và Nga đã chế tạo và sử dụng gần 63.000 khẩu pháo các loại trong đó khoảng 50% là lựu pháo. Chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều thay đổi đáng kể về chiến thuật, kỹ thuật, trang bị cho nhiều loại pháo. Giai đoạn này đã xuất hiện radar phục vụ việc bắn pháo, xuất hiện pháo tự hành, pháo phản lực và pháo chống tăng.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù xuất hiện rocket và đạn tự hành nhưng pháo vẫn có vai trò vô cùng quan trọng. Sự phát triển của pháo cũng gắn liền với sự phát triển của đạn. Từ năm 1970 đã xuất hiện các loại đạn pháo có điều khiển điển hình là đạn 155 mm Copperhead dùng cho lựu pháo tự hành M110 trong Chiến tranh Vùng Vịnh vào năm 1991.
Pháo khác với súng ở chỗ cỡ nòng của pháo lớn hơn nhiều so với cỡ nòng của súng (nòng súng đại liên cỡ lớn là đến 14.5 mm, trong khi nòng pháo cỡ nhỏ nhất là 20 mm và cỡ lớn là Schwerer Gustav 800 mm) nhưng đặc điểm quan trọng của pháo là đầu đạn có thể phát nổ khi bắn vào mục tiêu, trong khi đạn của súng thì không. Do vậy pháo có thể coi là hoả lực cơ bản của lục quân.
Pháo thời hiện đại
nhỏ|Pháo 105 mm của quân đội [[Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam, hiện trưng bày trên đỉnh Hòn Me (Hòn Đất, Kiên Giang)]]
Pháo thời nay rất dễ phân biệt bởi cỡ nòng lớn, bắn ra đầu đạn có thể nổ hoặc rocket và có kích thước cũng như khối lượng khác nhau để phù hợp với yêu cầu tương thích với xe đặc dụng cho chiến đấu và cho việc vận chuyển. Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng nhất của pháo thời hiện đại là sử dụng cách bắn gián tiếp, tức mục tiêu không nhất thiết phải nằm trong tầm nhìn. Cách bắn gián tiếp xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 là một bước tiến vượt bậc nhờ vào sự phát triển của phương pháp dự đoán hỏa lực trong thế chiến thứ nhất. Bắn gián tiếp sử dụng tập hợp dữ liệu hỏa lực (firing data set) trong tầm nhìn, phương pháp dự đoán hỏa lực đảm bảo dữ liệu này chính xác và phù hợp với sự sai khác khi so với điều kiện chuẩn cho vận tốc đầu đạn, nhiệt độ, gió và mật độ không khí.
Vũ khí với tên 'pháo hiện đại' bao gồm lựu pháo, súng cối, pháo dã chiến và pháo phản lực. Một số pháo loại súng cối với cỡ nòng nhỏ hơn thường được thiết kế với hỏa lực nhỏ hơn pháp, mặc dù vẫn dùng cách bắn gián tiếp.
Từ "pháo" lúc đầu không được sử dụng cho vật thể phóng đi với hệ thống đẫn đường bên trong, mặc dù một số đơn vị pháo binh sử dụng tên lửa đất đối đất. Những tiến bộ trong hệ thống dẫn đường cho vũ khí loại nhỏ đã giúp cho vật thể với cỡ nòng lớn được phát triển, nhờ thế xóa dần đi sự phân biệt này.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, những loại pháo cỡ nhỏ, có thể bắn tự động được phát minh để trang bị cho máy bay và để chống máy bay. Ngày nay, các loại pháo tự động đã thay thế các pháo phòng không cỡ lớn trên mặt đất, thay thế súng đại liên nhỏ trên máy bay, được đặt trên xe cộ một cách phổ biến. Pháo tự động là các loại súng có nhịp bắn cao nhất hiện nay, có thể lên tới 10.000 phát/phút.
Từ Chiến tranh thế giới thứ hai, một số loại "pháo xách tay", cỡ nòng thường là 20mm, đã xuất hiện. Các pháo nhỏ này được trang bị cho bộ binh để chống tăng, phá hoại xe cộ, máy bay.
Phân loại
Tập tin:Đạn đạo các pháo.JPG
Có thể phân loại pháo theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau như: Tính năng chiến đấu, tầm bắn, uy lực của đạn, độ chính xác bắn, tốc độ bắn, khả năng cơ động (về hỏa lực và di chuyển pháo)... Thông dụng nhất là phân loại theo các tiêu chuẩn sau:
Theo nơi đặt và mục tiêu bắn có: Pháo mặt đất, pháo trên máy bay, pháo trên xe tăng, pháo trên tàu chiến, pháo trên tàu hỏa, pháo phòng không, pháo chống tăng, pháo đa năng...
Theo kết cấu nòng có: Pháo rãnh xoắn, pháo nòng trơn
Theo cỡ nòng có: Pháo cỡ nhỏ (20 - 75mm), pháo cỡ trung (76 - 155mm), pháo cỡ lớn (trên 155mm)
Theo khả năng cơ động có: Pháo cố định, pháo xe kéo, pháo tự hành, pháo tự di chuyển, pháo mang vác...
Theo kết cấu có: Pháo nòng dài, pháo lựu, pháo không giật, cối...
Theo thao tác bắn có: Pháo tự động, pháo bán tự động, pháo không tự động
*Theo nguyên lý có: Thuật phóng trong (pháo, cối). Thuật phóng ngoài (pháo phản lực, hỏa tiễn)
Một số loại pháo
Pháo không giật (khoảng 1910)
Được Davis, người Mỹ, phát minh vào đầu thế kỷ 20, được sử dụng ngắn ngủi trên một vài máy bay của Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, loại pháo này có hai nòng ngược nhau và một buồng ở giữa để nạp đẩy. Vào cuối thập niên 1930, các hãng Krupp và Rheinmetal của Đức đã chế tạo nhiều mẫu pháo không giật với cỡ 75 mm, mà một mẫu đã được thử nghiệm cùng với lính nhảy dù Đức ở Crete.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Một khẩu pháo 122mm **Pháo** hay **đại pháo**, **đại bác**, **hỏa pháo** (tiếng Anh: _artillery_), là tên gọi chung của các loại hỏa khí tập thể có cỡ nòng từ 105mm trở lên, có tầm
**Trận phòng thủ pháo đài Brest** là một trận đánh diễn ra giữa quân đội phát xít Đức với lực lượng Hồng quân Xô Viết đồn trú trong pháo đài Brest. Về cơ bản, trận
nhỏ|350x350px|Pháo tự hành [[Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|Nga 2S19 Msta]]Một khẩu đội pháo tự hành [[Quân đội Anh|Anh AS-90 đang khai hỏa tại Basra, Iraq, 2006. ]] **Pháo tự hành** (tiếng Anh là
thumb|[[Pháo 5-inch/38-caliber|Pháo lưỡng dụng Mark 37 Modification 6 5-inch được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Chiến tranh Thái Bình Dương. Pháo có tầm bắn hơn và có thể đạt tốc độ bắn 22
phải|Một băng pháo được treo trước khi đốt **Bánh pháo**, **băng pháo**, **dây pháo** hay **tràng pháo** là một loại pháo được tết hoặc kết từ nhiều quả pháo, thường quấn bằng giấy điều (màu
phải|nhỏ|Hai chiếc PTHCT M10 của quân [[Mỹ tại Pháp]] **Pháo chống tăng** (tiếng Anh: **tank destroyer** hay **tank hunter**) là một loại chiến xa được thiết kế riêng để chống lại các phương tiện cơ
**Binh chủng Pháo binh** của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng hỏa lực chủ yếu của Quân chủng Lục quân và đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân
nhỏ|phải|Sơn pháo 94 mm của [[Anh]] nhỏ|phải|Quân [[Ấn Độ thuộc Anh năm 1895, đang nhồi đạn vào sơn pháo]] nhỏ|phải|Máy bắn đá cố định, sơn pháo cổ trong ngôn ngữ phương Đông **Sơn pháo** là
nhỏ|Làm pháo đất **Pháo đất**, còn gọi là **pháo nổ, pháo nang, phết, đánh đườn** theo câu nói hay được dùng khi chơi, là một trò chơi dân gian của Việt Nam sử dụng một
**Lựu pháo D-20 152 mm** (Tiếng Nga: 152-мм пушка гаубица Д-20 обр 1955 г) là loại lựu pháo hạng nặng do Liên Xô nghiên cứu thiết kế từ năm 1947 đến năm 1949. Liên Xô bắt
**Bảo tàng Pháo binh** trực thuộc Cục Chính trị, Binh chủng Pháo binh, Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày 08/05/1981 theo Quyết định số: 182/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
**Pháo 5 inch/38 caliber Mark 12** là một kiểu hải pháo của Hải quân Hoa Kỳ. Chúng được lắp đặt trên nhiều lớp thiết giáp hạm, tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu
Pháo hoa mừng [[Năm mới tại Cầu Cảng Sydney, Úc]] **Pháo hoa** hoặc **Pháo bông** là loại pháo sử dụng thuốc phóng, thuốc nổ và các phụ gia đặc biệt tạo nên quang cảnh hoành
nhỏ|Pháo tự động cỡ nòng 30mm kiểu [[Shipunov 2A42|2A42 trên xe chiến đấu bộ binh BMP-2 của Quân đội nhân dân Việt Nam]] **Pháo tự động** () là một loại súng tự động có khả
**Pháo M-46 130 mm** là loại pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Nhà máy Pháo binh số 9 của Liên Xô thiết kế từ năm 1947, đến năm 1951 thì bắt đầu
**61-K** (tiếng Nga: **37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)**) là một loại pháo phòng không tự động có cỡ nòng 37 mm được Liên Xô sản xuất từ cuối năm 1939. Được dùng chủ
**Pháo đài Jaisalmer** nằm ở thành phố Jaisalmer, thuộc bang Rajasthan của Ấn Độ. Người ta tin rằng nó là một trong số rất ít các "pháo đài sống" (có lẽ chỉ có duy nhất)
thumb|Một khẩu pháo dã chiến của Đức sử dụng trong thế chiến thứ Nhất **Pháo dã chiến** là các loại pháo nhỏ có thể di chuyển nhanh chóng bởi một nhóm các pháo thủ hay
**Pháo đài Brest** (tiếng Belarus: Брэсцкая крэпасць, Brestskaya krepasts '; tiếng Nga: Брестская крепость, Brestskaya krepost '; tiếng Ba Lan: Twierdza brzeska), trước đây gọi là Pháo đài Brest-Litovsk, là một pháo đài của Nga
**Pháo 5-inch/25-caliber** được đưa vào sử dụng như là pháo phòng không hạng nặng tiêu chuẩn trên những tàu tuần dương hiệp ước của Hải quân Hoa Kỳ được đưa vào hoạt động trong các
**Pháo 6 inch/47 caliber Mark 16** là kiểu hải pháo được sử dụng cho dàn pháo chính của nhiều lớp tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ vào giai đoạn trước và
**Bofors 40 mm** là loại pháo tự động do nhà thầu quốc phòng Bofors tại Thụy Điển thiết kế. Đây là một trong các loại pháo có trọng lượng trung bình được dùng nhiều nhất chiến
nhỏ|260x260px| Pháo đài [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung 31 _Benedykt_ ]] **Pháo đài Kraków** (Ba Lan: _Twierdza Kraków,_ Đức: _Festung Krakau)_ đề cập theo nghĩa hẹp đến công sự của đế quốc Áo-Hung thế kỷ 19, và
thumb|M-777 và kíp chiến đấu chuẩn bị diễn tập thế=|nhỏ|240x240px|[[2S35 Koalitsiya-SV|2S35 Koalitsiya của Nga]] **Lựu pháo** là một trong bốn loại hỏa pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, súng cối, pháo phản
**Trường Đại học Sĩ quan Pháo binh (PBH)** là một trường đào tạo sĩ quan chỉ huy chiến thuật cấp phân đội chuyên ngành pháo binh trực thuộc Binh chủng Pháo binh của Bộ Quốc
**Đạn pháo** là loại đạn được bắn từ các loại pháo để tiêu diệt các mục tiêu như sinh lực, phương tiện, trang bị; phá hủy nhà cửa, các công trình quân sự, sở chỉ
**Panzerjäger Tiger Ausf. B Jagdtiger (Sd. Kfz. 186)** là tên một loại pháo tự hành hạng nặng thuộc sư đoàn Jagdpanzer phục vụ lực lượng quân đội Đức Quốc xã từ năm 1944 đến cuối
**Pháo tự hành M110** là pháo tự hành có cỡ nòng lớn nhất còn được sử dụng của Quân đội Hoa Kỳ. M-110 thường được triển khai trong các tiểu đoàn pháo binh hỗ trợ
**Trò chơi pháo binh** (tiếng Anh: _Artillery game_) là thể loại video game (thường là theo lượt) hai hoặc ba người chơi đầu tiên liên quan đến xe tăng chiến đấu lẫn nhau trong một
**Pháo đài Warsaw** (, ) là một hệ thống công sự được xây dựng tại Warsaw, Ba Lan trong thế kỷ 19 khi thành phố này là một phần của Đế quốc Nga. Pháo đài
**Pháo đài Wisłoujście** () là một pháo đài lịch sử nằm ở Gdańsk bên sông Martwa Wisła, bên cạnh một cửa cũ của sông Vistula, chảy vào Vịnh Gdańsk. Pháo đài nằm gần quận Wisłoujście,
nhỏ|300x300px| Dự án từ giữa thế kỷ 17 nhỏ|300x300px| Một trong những mảnh còn sót lại của Pháo đài; ngày nay là một bảo tàng. **Pháo đài Zamość** () là một tập hợp các công
right|thumb|Một khẩu **[[Canon d'Infanterie de 37 modèle 1916 TRP** 37mm của Pháp (có loa che tia lửa đầu nòng).]] **Pháo hỗ trợ bộ binh **(_Infantry support guns_ hay còn gọi là _battalion guns_ - pháo
**Pháo 37 mm M3** là pháo chống tăng đầu tiên của Hoa Kỳ. Nó cũng được sử dụng như một pháo hỗ trợ bộ binh. ## Lịch sử phát triển Giữa những năm 1930, quân đội
**Pháo đài Provintia** hay **Providentia** là một tiền đồn của người Hà Lan trên đảo Đài Loan, hiện nay tọa lạc ở Quận Trung Tây của thành phố Đài Nam thuộc Trung Hoa Dân Quốc.
**Pháo đài VI Toruń** là một pháo đài bộ binh, được biết đến với tên gọi khác là pháo đài VI Jarema Wiśniowiecki. Đây là pháo đài thứ 6 trong số 15 pháo đài nằm
**Pháo đài V Toruń** là một pháo đài pháo bình, là pháo đài thứ 5 trong tổ hợp 15 pháo đài của hệ thống pháo đài Toruń. Đây là pháo đài nằm ở vòng ngoài
**Pháo đài Anh hùng** (tiếng Nga: Крепость-герой, _Krepost'-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho Pháo đài Brest đã có những
Tầm nhìn toàn cảnh cung điện Amer. Pháo đài Amber **Pháo đài Amer** là một pháo đài nằm ở Amer, Rajasthan, Ấn Độ. Amer là một thị trấn với diện tích nằm cách Jaipur, thủ
nhỏ|250x250px| Phần còn lại của nhà thờ Lock (_Dom Schleuse_), một phần của vòng phòng thủ bên trong ban đầu nhỏ|250x250px| Pháo đài III, một trong những pháo đài bên ngoài được xây dựng vào
**Các pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking** hay **các pháo đài kiểu Trelleborg** là dạng thành lũy vòng tròn có thiết kế đặc biệt được xây dựng ở Scandinavia trong Thời đại Viking. Các
**Jagdpanther**(tiếng Anh:_"hunting panther"_-tạm dịch:báo săn) là một tên của một loại pháo tự hành chống tăng của Đức Quốc xã trong thế chiến II. Jagdpanther được lắp trên khung tăng Panther. Nó tham gia cuộc
**Pháo đài Rohtas** (Tiếng Punjab, ; _Qila Rohtas_) là một pháo đài từ thế kỷ 16, nằm gần thành phố Jhelum, tỉnh Punjab của Pakistan. Pháo đài này được xây dựng trong thời gian trị
**Pháo đài Zegrze** () là một cấu trúc quân sự nằm ở Zegrze, Ba Lan, trên một vách núi cao trên sông Narew. Được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bởi Đế quốc Nga,
Pháo **Type 92 **(九二式歩兵砲 _Kyūni-shiki Hoheihō_) là một loại pháo hỗ trợ bộ binh hạng nhẹ được sử dụng bởi quân đội Thiên hoàng Nhật Bản trong chiến tranh Trung-Nhật và Thế chiến 2. Nó
nhỏ|Một phần của pháo đài XV **Pháo đài XV Toruń** hay Pháo đài XV Henryk Dąbrowski, là một pháo đài pháo binh, nằm ở vòng ngoài của hệ thống pháo đài Toruń. ## Lịch sử
**Pháo đài Kleparz**, hay còn được biết đến là Pháo đài III Kleparz, là một pháo đài kiểu Redita (được xây dựng chủ yếu bằng gạch, với các boongke và trạm pháo đặt ở trung
phải|Dàn pháo phản lực [[Kachiusa (Liên Xô-Thế chiến 2)]] **Pháo phản lực** là một trong bốn loại hoả pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, lựu pháo, súng cối và pháo phản lực).
**Pháo đài Delhi**, còn gọi là **Lal Qil'ah**, hay **Lal Qila** (Tiếng Hindu: लाल क़िला, Urdu: لال قلعہ) có nghĩa là **Pháo đài Đỏ**, là một pháo đài lịch sử nằm tại thành phố Delhi,
**Vườn quốc gia pháo đài đồi Brimstone** là một vườn quốc gia nằm trên đảo Saint Kitts thuộc Saint Kitts và Nevis, đông Caribe. Nó được thiết kế bởi các kĩ sư quân sự người