Lựu pháo D-20 152 mm (Tiếng Nga: 152-мм пушка гаубица Д-20 обр 1955 г) là loại lựu pháo hạng nặng do Liên Xô nghiên cứu thiết kế từ năm 1947 đến năm 1949. Liên Xô bắt đầu tiến hành sản xuất từ năm 1950. NATO nhận được thông tin về nó vào năm 1955 nên họ gọi nó là pháo M-1955. Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên Xô (nay là Liên Bang Nga) (GRAU) đặt tên là 52-P-546. Biến thể nổi tiếng nhất của nó là Lựu pháo kiểu 66 do Trung Quốc sản xuất bất hợp pháp.
Lịch sử
Lựu pháo nòng dài D-20
D-20 là mẫu lựu pháo đầu tiên của Liên Xô có cỡ nòng lớn cũng như tầm bắn xa của họ lúc bấy giờ. Mẫu lựu pháo cỡ lớn bắt đầu được nghĩ đến từ những khẩu pháo bức kích 152 mm của Quân đội Hoàng gia Anh mà Liên Xô nhận được từ thời thế chiến thứ hai (thông qua chương trình hỗ trợ vũ khí, đạn dược do Anh và Mỹ tiến hành để hỗ trợ Hồng Quân Liên Xô chống quân phát xít Đức). D-20 là mẫu pháo bức kích được thiết kế để thay thế đại bác ML-20 của Liên Xô cũng có cỡ nòng 152 mm dùng từ thời thế chiến thứ hai nhưng nặng nề và có uy lực kém hơn. Liên Xô xếp đại bác D-20 vào nhóm "pháo trung bình" vì sơ tốc đạn của nó vượt quá 600 m/s.
D-20 được thiết kế vào năm 1947 và xuất hiện lần đầu năm 1955. Dẫn đầu đoàn thiết kế là nhà thiết kế pháo binh nổi tiếng Fedor Fedorovich Petrov (1902-1978), ông cũng là tác giả của một số loại pháo của Liên Xô thời thế chiến thứ hai. Được chỉ định sản xuất tại Nhà máy sản xuất pháo binh số 9 tại Sverdlovsk (sau này là tại Nhà máy Motovilikha ở Yekaterinburg). Phiên bản tự hành của D-20 là pháo tự hành 2S3 Akatsiya. Nó trở thành pháo 152mm chính yếu của Hồng quân Liên Xô và Khối Hiệp ước Warsaw. Nó được biên chế thành pháo cấp chiến dịch và tăng cường cho các đơn vị bộ binh cấp trung đoàn, các lữ đoàn bộ binh tăng - thiết giáp hỗn hợp.
Đặc điểm và hoạt động
Pháo 152mm D-20 khá nặng nề và khó cơ động trên trận địa, nhưng bù lại cho khuyết điểm đó là tầm bắn của nó có thể đạt tới 17,4 km. Pháo D-20 sử dụng chung 1 khung với loại pháo mặt đất nòng dài D-74, được tăng cường 2 bánh xe nhỏ sau chân giá đỡ để có thể di chuyển cơ động hơn và xoay ngang súng dễ dàng hơn. Súng cũng có 1 khiên bảo vệ cho tổ pháo. Nòng pháo ngắn hơn D-74, đường kính lớn hơn, cỡ nòng 152mm và có 1 đầu giảm giật (muzzle brake) 2 lỗ thoát khí thuốc liều phóng. Khi bắn, nòng pháo phóng ra lửa theo đạn như súng phun lửa do sơ tốc đạn nhanh và âm thanh rất đinh tai. Pháo D-20 cũng có hệ thống hãm giật 2 xi-lanh phía trên nòng pháo như D-74 và cả hai loại pháo này đều sử dụng khoá nòng xoắn bắn tự động. Pháo được trang bị hệ thống ngắm khi bắn định hướng (bắn thẳng) cả ban ngày lẫn ban đêm cung cấp cho pháo khả năng chống xe tăng đáng kể.
Pháo bắn đạn FRAG-HE, OF-540 với tốc độ bắn có thể đạt tới 5 - 6 phát 1 phút, 1 tiếng có thể bắn tới 65 phát. Pháo có thể kéo bằng xe bọc thép hay xe tải hạng nặng. D-20 được Trung Quốc chế tạo bất hợp pháp với cái tên Type 66 và viện trợ cho các nước khác.
Biến thể
Liên Bang Nga
- Lựu pháo Khitin phiên bản nâng cấp của D-20 với tốc độ bắn nhanh hơn khoảng 7-8 phát/phút.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
- Lựu pháo kiểu 66 Phiên bản sao chép bất hợp pháp D-20 năm 1966
- Pháo tự hành kiểu 83 Phiên bản sao chép bất hợp pháp 2S3 Akatsiya năm 1988.
România
- A411 Phiên bản đơn giản hóa của D-20. Trong Quân đội Romania nó có tên là Lựu pháo M1981 152 mm.
- A412 Phiên bản sao chép có giấy phép từ khẩu Lựu pháo kiểu 59 của Trung Quốc nhưng dùng hệ thống kéo của D-20. Trong Quân đội Romania nó có tên là Lựu pháo M1982 130 mm.
- A425 Phiên bản sao chép lựu pháo 2A65 152 mm. Hệ thống này được xuất khẩu với tên là Model 1984.
Nam Tư
- M84 NORA-A và M96 NORA-B Phiên bản pháo tự hành sử dụng xe kéo NORA của Nam Tư.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
- M1974 152mm Phiên bản sao chép Lựu pháo kiểu 66 của Trung Quốc với cái tên "Tokchon".
Quốc gia sử dụng
D-20 đang bắn
Hiện tại
Các quốc gia từng sử dụng
-
- Chuyển giao cho Cộng hòa Liên bang Đức
-
- Chuyển giao cho các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa kế tục
-
- M84 NORA-A, chuyển giao cho các quốc gia kế tục
Các cuộc chiến đã tham gia
Các cuộc chiến mà D-20 đã tham gia bao gồm:
- Chiến tranh Việt Nam
- Chiến tranh biên giới Việt-Trung
- Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)
- Chiến tranh Yom Kippur
- Chiến tranh Iran-Iraq
- Chiến tranh vùng Vịnh
- Xung đột biên giới Trung-Xô
- Chiến tranh Sáu ngày
- Chiến tranh Ấn Độ - Pakistan
- Chiến tranh Trung-Ấn
Thông số kỹ thuật cơ bản
Lựu pháo D-20 của Iran đang bắn
- Loại: Lựu pháo nòng dài hạng nặng (hay Pháo bức kích)
- Nước SX: Liên Xô, Trung Quốc
- Nặng: 5,7 tấn
- Dài nòng: 5.195 m
- Cỡ nòng: 152mm
- Tổ pháo: 8 người
- Góc bắn: Từ-5° tới 63°
- Tốc độ bắn: tối đa từ 5 tới 6 phát/ 1 phút
- Sơ tốc đạn:650 m/s
- Tầm bắn hiệu quả: 17,4 km
- Tầm bắn tối đa: 24 km.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lựu pháo D-20 152 mm** (Tiếng Nga: 152-мм пушка гаубица Д-20 обр 1955 г) là loại lựu pháo hạng nặng do Liên Xô nghiên cứu thiết kế từ năm 1947 đến năm 1949. Liên Xô bắt
nhỏ|350x350px|Pháo tự hành [[Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|Nga 2S19 Msta]]Một khẩu đội pháo tự hành [[Quân đội Anh|Anh AS-90 đang khai hỏa tại Basra, Iraq, 2006. ]] **Pháo tự hành** (tiếng Anh là
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
**SU-122** (SU là viết tắt của _" Samokhodnaya Ustanovka"_; 122 mm là cỡ nòng pháo chính) là tên một loại lựu pháo tự hành bọc thép bánh xích do Liên Xô chế tạo từ thời thế
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
phải|Đạn pháo 380mm trong [[Musée national de la Marine|Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Pháp. Dùng cho 380mm/45 Modèle 1935 (Pháo bắn đạn xuyên phá 380mm tỉ lệ chiều dài nòng CaL 45)]] Ngày nay,
**Tiger I** là một loại xe tăng hạng nặng của Đức được sử dụng trong Thế chiến II, được sản xuất từ cuối năm 1942 như một loại tăng đương đầu với sức kháng cự
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**KV** là tên một dòng tăng hạng nặng lấy tên viết tắt của nhà chính trị-quân sự nổi tiếng Liên Xô Kliment Voroshilov. Dòng xe KV phục vụ cho quân đội Liên Xô từ trước
nhỏ|264x264px|_Diễu hành Chiến thắng ở Moskva ngày 24 tháng 6 năm 1945_ **Cuộc diễu hành Chiến thắng Moskva năm 1945** (tiếng Nga: Парад Победы) còn được gọi là **Cuộc diễu hành của những người chiến
**BTR-152** (BTR, ), còn được gọi là **BTR-140**, là loại xe bọc thép chở quân (không có khả năng đổ bộ và lội nước) do Liên Xô chế tạo từ năm 1950. BTR-152 được phát
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**SU-100Y** Liên Xô là một nguyên mẫu pháo tự hành, được tiến hành phát triển từ nguyên mẫu xe tăng T-100. Nó được phát triển trong Chiến tranh mùa đông với Phần Lan,khẩu pháo 130 mm
**Chiến dịch Polotsk** (29 tháng 6 - 4 tháng 7 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào
phải|thumb|[[Lựu pháo D-20 152 mm trong Chiến tranh Iran-Iraq.]] **Oanh tạc** hay **oanh kích** () là hoạt động tấn công bằng hỏa lực của pháo binh (**pháo kích**) hoặc bằng bom của máy bay (**không
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**Lực lượng Mặt đất Lực lượng Vũ trang Liên Xô** () là nhánh lục quân của Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Là một lực lượng độc lập của Lực lượng Vũ trang Liên Xô,
**Xe tăng Panther** (_Con Báo_) là tên một loại xe tăng hạng trung phục vụ cho quân đội Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm
**Chiến dịch phản công Mozhaysk-Vyazma** có tên mã **Chiến dịch "Sao Mộc"** (10 tháng 1 - 31 tháng 3 năm 1942) là chiến dịch bộ phận trong Cuộc phản công chiến lược đầu năm 1942
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Gold**, hay **Bãi Gold**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, mật danh của chiến dịch đổ bộ trong giai đoạn đầu của
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,