✨Pháo tự hành chống tăng

Pháo tự hành chống tăng

phải|nhỏ|Hai chiếc PTHCT M10 của quân [[Mỹ tại Pháp]] Pháo chống tăng (tiếng Anh: tank destroyer hay tank hunter) là một loại chiến xa được thiết kế riêng để chống lại các phương tiện cơ giới bọc thép của đối phương, đặc biệt là xe tăng.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Pháo chống tăng không còn được ưa chuộng như trước, khi quân đội khắp nơi trên thế giới không còn mặn mà áp dụng Pháo chống tăng nữa mà chuyển sang học thuyết tăng chủ lực. Việc tấn công các mục tiêu tầm xa được thực hiện bởi những phương tiện chiến đấu thế hệ mới, được trang bị tên lửa tên lửa điều khiển chống tăng . Tuy nhiên, một loạt chiến xa mới, với nhiều đặc điểm giống với pháo tự hành chống tăng lúc trước, xuất hiện trong những năm gần đây với vai trò yểm trợ bộ binh trong những cuộc giao tranh quy mô nhỏ.

Ưu điểm-nhược điểm-chiến thuật

Được thiết kế để đối đầu với tăng thiết giáp của địch, PTHCT được trang bị hỏa lực rất mạnh so với xe tăng cùng thời,với tầm bắn xa và độ chính xác cao hơn.Giáp trụ thường được gia cố tốt hơn, nhất là giáp trước. Ngoài ra một số loại PTHCT cơ động hơn so với xe tăng,giúp việc tiếp cận mục tiêu và tránh hỏa lực địch được dễ dàng hơn. PTHCT còn có thể sản xuất số lượng lớn với chi phí thấp,đặc biệt khi sử dụng cùng khung gầm với xe tăng. Ngoại trừ một số thiết kế của Hoa Kỳ và Anh Quốc,đa phần pháo tự hành chống tăng có dạng hình hộp và hoàn toàn không có tháp pháo.Nhờ đó mà dung tích thân xe cũng lớn hơn,giúp chứa nhiều đạn dược và tổ lái được thoải mái nhất có thể khi tác chiến.

Tuy nhiên PTHCT không thể đảm đương tất cả vai trò như xe tăng,nhất là trong tấn công.Chúng gần như vô dụng trong môi trường chiến tranh đô thị.Với thiết kế hoàn toàn không có tháp pháo,việc tiếp cận nhiều mục tiêu từ nhiều hướng khác nhau thường rất khó khăn do toàn bộ thân xe phải quay sang phải hoặc sang trái 360°,một quá trình mất nhiều thời gian so với việc sau này khi khoa học quân sự phát triển vượt bậc mới dần có pháo tự hành chống tăng có tháp pháo và thân xe xoay hoàn toàn độc lập với nhau giống như chỉ xoay tháp pháo trên xe tăng.Nếu như xích xe bị phá hủy,chiến xa sẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn.Bộ binh cũng có thể là một mối đe dọa lớn (một số loại PTHCT thời kì đầu có thể bị tiêu diệt dễ dàng chỉ với vũ khí cầm tay cơ bản).Ngoài ra cách bố trí thời đó hoàn toàn không có tháp pháo làm tổ lái dễ bị tổn thương hơn khi pháo bị bắn trúng.

Thế nên PTHCT chủ yếu được dùng trong nhiệm vụ phòng thủ,yểm trợ và mai phục từ tuyến hai hạn chế giao tranh tầm xa,sử dụng triệt để độ chính xác và khả năng ngụy trang. Với độ cơ động cao,PTHCT còn có thể thay đổi hướng tiếp cận mục tiêu hoặc di chuyển đến vị trí mai phục khác khi cần thiết.

PTHCT thời Chiến tranh thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới thứ hai là giai đoạn phát triển của pháo chống tăng tự hành. Những mẫu thiết kế rất đa dạng, từ những giải pháp tạm thời (như dòng pháo Marder của Đức Quốc xã) đến những thiết kế phức tạp và hiệu quả. Một ví dụ cụ thể là hai loại pháo chống tăng tự hành Marder IIIJagdpanzer 38 Hetzer_._ Cả hai đều được dựa trên cùng một khung gầm Panzer 38(t) , nhưng thiết kế của dòng pháo Marder đơn giản hơn, gắn một khẩu pháo chống tăng lên khung gầm của một dòng xe tăng đã lỗi thời. Mặt khác, dòng pháo chống tăng Hetzer hi sinh một phần hỏa lực để đổi lấy lớp giáp được thiết kế phức tạp nhưng hiệu quả, dễ ngụy trang trên chiến trường. Ở giai đoạn này, các học thuyết cũng như đặc điểm của PTHCT giữa các nước rất khác nhau.

Các mẫu PTHCT của Ba Lan

Hai loại pháo tự hành chống tăng đầu tiên của Ba Lan chính là mẫu TK3TKS với pháo chính có cỡ nòng 20 mm và một mẫu khác có cỡ nòng 37 mm. Tuy nhiên hiệu quả của chúng trên chiến trường trước quân Đức xâm lược không cao (nếu không muốn nói là quá kém), khiến cho các dự án bị hủy bỏ.

Các mẫu PTHCT của Đức

Pháo chống tăng tự hành của Đức Quốc xã có thể được phân ra làm 2 dòng riêng biệt: Dòng Panzerjäger và dòng Jagdpanzer.

Loại pháo tự hành chống tăng đầu tiên được Đức phát triển là Panzerjäger I ("thợ săn tăng"), được trang bị pháo chống tăng Skoda 47 mm lắp trên khung gầm tăng Panzer I và được bọc giáp rất sơ sài, chỉ ở phía trước và 2 bên. Tương tự như Panzerjäger I, Marder II được thiết kế và lắp ráp dựa trên khung tăng Panzer II và trang bị một loại pháo có cỡ nòng 7.62 cm của Hồng Quân (sau này là pháo 7.5 cm Pak 40 của Đức). Mẫu cuối cùng của dòng này là Marder III (hay còn được biết đến với tên gọi Marder 38t), với khung gầm tăng Panzer 38(t). Phiên bản cuối cùng của dòng Panzerjäger là Ferdinand với pháo chống tăng 8.8 cm PaK 43/2 L/71.

Nếu như đặc điểm của dòng Panzerjäger là hi sinh một lượng lớn áo giáp để đổi lấy hỏa lực mạnh, thì dòng Jagdpanzer lại được trang bị một lớp giáp dày đáng kể so với xe tăng ở cùng thời kì. Một trong những thành công lớn nhất của dòng pháo chống tăng này là PTHCT Sturmgeschütz III (StuG III) với hơn 10000 chiếc được sản xuất. Được dựa trên khung gầm tăng Panzer III, vốn đã lỗi thời trước xe tăng T-34 và KV-1 của Liên Xô. Việc loại bỏ tháp pháo cho phép lắp đặt những loại súng có cỡ nòng lớn hơn, hiệu quả hơn khi đối đầu với xe tăng hạng nặng. giáp trước cũng được gia tăng đáng kể. Sự khác nhau lớn nhất giữa hai dòng PTHCT của Đức là lớp giáp dày bốn phía của dòng tăng Jadgpanzer. Cho phép kíp lái được an toàn trước vũ khí cầm tay của bộ binh. nhỏ|phải|Jagdpanther Các phiên bản phát triển khác của sê ri PTHCT này gồm có: Jagdpanzer 38 "Hetzer", Sturmgeschütz IV, Jagdpanzer IV, Jagdpanther và Jagdtiger đều được trang bị các loại pháo có cỡ nòng từ 75–128 mm, bọc giáp nặng từ 60mm-200mm. Trong đó Jagdpanther và Jagdtiger là hai loại PTHCT được lắp ráp dựa trên khung của hai loại tăng nổi tiếng là Tiger II (tăng con cọp) và Panther (tăng con báo).Trong lịch sử thế chiến II, Jagdtiger là loại PTHCT được bọc giáp nặng nhất và có vũ khí được đánh giá là mạnh nhất.

Các mẫu PTHCT của Liên Xô

nhỏ|ISU-152 Giống như PTHCT dòng Jadgpanzer của Đức, các loại PTHCT của Liên Xô ("SU" hay "Samokhodnaya ustanovka") cũng được lắp trên khung tăng và không sử dụng tháp pháo. Tuy nhiên, các loại PTHCT của Liên Xô thường nhỏ gọn, đơn giản hơn, do đó quá trình chế tạo nhanh hơn của Đức nhưng vẫn có thể lắp được pháo chính nặng, có sức công phá cao. PTHCT SU-85 (trang bị pháo có cỡ nòng 85 mm) và SU-100 (trang bị pháo có cỡ nòng 100 mm) đều được lắp ráp trên khung tăng T-34. Giống như hai mẫu trên, ISU-122 (trang bị pháo có cỡ nòng 122 mm) và ISU-152(trang bị pháo có cỡ nòng 152 mm) cùng được lắp ráp trên khung tăng IS-2, có biệt danh "Zveroboy" (tạm dịch là "kẻ giết quái thú") vì thành tích tiêu diệt được các loại tăng và pháo tự hành hạng nặng của Đức như Tiger II, Panther, Elefant. ISU-152 được đánh giá là gần ngang bằng về cả sức chiến đấu, hỏa lực và lớp giáp bọc với Jagdtiger.Nòng pháo M-1937/43 của ISU-152 bắn ra loại đạn nặng có thể thổi tung giáp của bất cứ loại tăng nào của Đức.

Vào năm 1943, Liên Xô chế tạo thêm mẫu SU-76 dựa trên khung tăng T-70.Số SU-76 được dùng để hỗ trợ bộ binh và phá hủy các công trình quân sự.

Các mẫu PTHCT của Mỹ

nhỏ|PTHCT M36 của Mỹ Quan điểm về PTHCT của Hoa Kỳ và Anh khác với Đức và Liên Xô. Được xây dựng sau sư kiện Pháp thất thủ, học thuyết của Mỹ cho rằng các lực lượng quân Đồng Minh sẽ phải đối mặt với một lượng lớn xe tăng địch tấn công đồng loạt. Thay vì tấn công mặt đối mặt, chiến thuật đánh thúc sườn được chú trọng, do đó đòi hỏi PTHCT phải có tháp pháo. Bên cạnh đó, các tướng lãnh trong quân đội tin rằng việc thay đổi vị trí sau vài loạt đạn là cần thiết, nên các nhà thiết kế tập trung nâng cao tính cơ động cho các dòng pháo tự hành chống tăng của họ qua việc hi sinh một phần lớp giáp bảo vệ.PTHCT Mỹ được thiết kế để có thể hoạt động khá linh hoạt và được trang bị vũ khí hạng nặng. Khác với các loại PTHCT của Liên Xô và Đức, nhiều loại PTHCT của Mỹ sử dụng tháp pháo "hở", nhằm giảm bớt trọng lượng và lắp được pháo lớn hơn so với các tháp pháo "kín" của xe tăng thông thường. Một trong những mẫu PTHCT đầu tiên của Mỹ chính là M3 Half-track (xe tải bánh hơi kết hợp xích, trang bị pháo chính M1897 75mm). Mẫu thứ hai là Dodge 3/4 (được trang bị một khẩu pháo chống tăng 37mm).Tiếp theo là các mẫu 3in Gun Motor Carriage M10 "Wolverine", 90mm Gun Motor Carriage M36 "Jackson"76mm Gun Motor Carriage M18 "Hellcat".Trong đó mẫu M18 là thành công nhất vì nó di chuyển rất nhanh và trang bị pháo chính có cỡ nòng 76mm. thumb|Siêu pháo tự hành chống tăng T28 (sau này là T95).Điều đáng Chú ý nhất là để ý đến lớp bánh xích kép của nó Trong tất cả các mẫu PTHCT của Mỹ, chỉ có M18 và M36 là có thể đối đầu với các loại PTHCT hạng nặng khác của Đức. Nhưng vì thiết kế tháp pháo hở và lớp giáp bọc còn quá mỏng khiến cho hai loại PTHCT này có thể bị phá hủy một cách dễ dàng. Thiết kế duy nhất của Mỹ về một loại PTHCT không tháp pháo là T28, với ý định bẻ gãy phòng tuyến Siegfried của quân Đức.Thiết kế này sử dụng pháo 105mm T5E1, được bọc giáp rất nặng (tổng cộng lên đến 100 tấn). Tuy nhiên chiến tranh kết thúc trước khi chúng được đưa vào sản xuất hàng loạt.

Các mẫu PTHCT của Anh

Trong thời kì này, quân đội Anh đã phát triển một sê ri pháo chống tăng khá hiệu quả để trang bị cho thiết giáp của họ, bao gồm pháo 40mm QF 2 Pounder, pháo 57mm 6 Pounder. Nổi bật nhất là pháo 75mm QF 17 Pounder, được xem là một trong những loại pháo chống tăng hiệu quả nhất của thế chiến thứ 2. Tuy nhiên, do việc thiếu hụt tài nguyên cũng như không có một loại xe tăng phù hợp trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các nhà kĩ sư đã tìm cách lắp pháo này (QF 17 Pounder) lên các khung gầm tăng mà họ có. Điều này đã dẫn đến một loạt những thiết kế khác nhau.

Pháo tự hành chống tăng Archer, được dựa trên khung gầm tăng hạng nhẹ Valentine, là một trong số đó, với kiểu thiết kế khá giống với dòng PTHCT Marder của Đức. Điểm nổi bật là pháo được bố trí quay về phía sau, khiến tổ lái phải quay ngược xe lại nếu muốn giao tranh với địch. Điều đáng ngạc nhiên là kiểu thiết kế này tỏ ra khá hiệu quả. Chiều dài của xe được rút ngắn, giúp ngụy trang hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc thoái lui sau khi giao tranh cũng khá dễ dàng.

Ngoài ra còn phiên bản 17pounder SP Achilles, là một biến thể đặc biệt của dòng PTHCT M10 "Wolverine", sử dụng pháo QF 17 Pounder (thay vì pháo 3inch gun M1 của Mỹ).

Một thiết kế khác của người Anh có nhiều điểm tương đồng với dòng Jadgpanzer của Đức và SU của Liên Xô là PTHCT Churchill 3 inch Gun Carrier, kết hợp khung gầm xe tăng hạng nặng Churchill với pháo 76.2mm QF 3-inch 20 cwt trong một khung hình hộp chữ nhật. Tuy nhiên không có chiếc nào được nhận vào biên chế do nhu cầu chống lại lực lượng tăng và thiết giáp Phát xít giảm dần về cuối cuộc chiến. Hơn nữa, một thiết kế khác, xe tăng Cruiser Mk VIII Challenger (sau này là Avenger), tỏ ra ưu việt hơn. PTHCT Tortoise (rùa cạn) là biến thể cuối cùng của dòng tăng này. Được trang bị pháo 94mm 32 Pounder và rất nhiều giáp, nhưng dòng PTHCT này cũng ko được nhận vào biên chế.

Pháo tự hành chống tăng thời hiện đại

Ngày nay, có rất nhiều phương tiện chiến đấu được sử dụng để chống tăng như trực thăng, máy bay phản lực... Tuy nhiên vẫn còn tồn tại các sư đoàn chống tăng sử dụng các loại xe tăng có tầm tác xạ cao cũng như các loại tên lửa đối đất.

Các loại pháo chống tăng hiện đại đều sử dụng tên lửa chống tăng (ATGM), lắp ráp dựa trên khung tăng khác, đôi khi còn được lắp ráp dựa trên khung của một loại xe vận tải bọc thép (APC). Ví dụ điển hính nhất của loại này chính là M901 ITV (của quân đội Mỹ), NM142 (của quân đội Na Uy)-cả hai loại đều được lắp ráp dựa trên khung xe thiết giáp M113.Một vài mẫu khác của Liên Xô được lắp ráp dựa trên khung xe do thám BRDM. Hai loại khác của Đức và Anh là FV438 Swingfire, FV102 Striker được lắp ráp trên khung xe chiến đấu HS 30, Marder IFV.

Quân đội Mỹ kết hợp sư đoàn chống tăng với một sư đoàn thiết giáp khác nhằm có thể bảo vệ một cách tốt nhất các sư đoàn chống tăng sử dụng tên lửa đối đất tấn công từ đằng xa.

Quân đội Ý và Tây Ban Nha có chế tạo một số mẫu PTHCT di chuyển bằng bánh hơi, với pháo chính 105 mm, loại PTHCT có đặc điểm là di chuyển và phòng vệ rất tốt nhưng có nhược điểm là không thể tác xạ mục tiêu từ một khoảng cách xa. Một ví dụ điển hình về loại này chính là chiếc B1 Centauro và hệ thống M1128. Các phiên bản sau được trang bị thêm thiết bị định hướng đầu đạn và có thể thay đạn tự động. Quân đội Canada dự định thay thế các xe tăng Leopard I mua từ Đức bằng hệ thống M1128 của quân đội Mỹ. Nhưng do lớp giáp của M1128 chỉ dày có 14,5mm (dễ bị các loại bom đặt dưới đường đi phá hủy) nên quân đội Canada đã quyết định tiếp tục mua 100 chiếc Leopard 2 nữa từ Đức.

Quân đội Nga đã đưa vào sử dụng 2S25 Sprut-SD từ năm 2005. Đây là loại pháo tự hành chống tăng bánh xích dùng pháo cỡ nòng 125 mm. Ngoài ra, sự kết hợp giữa hệ thống tên lửa điều khiển chống tăng 9M133M Kornet-M với xe tải bộ binh cơ động bọc thép nhẹ Tigr tạo thành hệ thống Kornet-D cũng đã được đưa Quân đội Nga đưa vào sử dụng từ năm 2015.

Quân đội Nhật và Quân đội Trung Quốc đều phát triển các dòng pháo tự hành chống tăng riêng của mình.

Hình:NM142 x 3.jpg|Một tiểu đội NM142 của quân đội Na Uy Hình:Centauro Tank Iraq.jpg|Một chiếc B1 Centauro tại Iraq File:PTZ-89.jpg|Một cỗ pháo tự hành diệt tăng bánh lốp của Lục quân Trung Quốc trong một cuộc diễu binh năm 1999 kỷ niệm 50 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa File:JGSDF Type 16 Maneuver Combat Vehicle(26-6348) left side view at Camp Nihonbara October 1, 2017 02.jpg|Xe chiến đấu cơ động Kiểu 16 của Lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản. File:Sprut-SDM-1 at the exhibition Army-2015.JPG|Pháo tự hành chống tăng bánh xích - xe tăng hạng nhẹ 2S25 Sprut-SD của Quân đội Liên bang Nga File:פרא.jpg|Pháo tự hành chống tăng Pereh của Israel gồm xe bọc thép bánh xích với tháp pháo phóng tên lửa Spike
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Jagdpanther**(tiếng Anh:_"hunting panther"_-tạm dịch:báo săn) là một tên của một loại pháo tự hành chống tăng của Đức Quốc xã trong thế chiến II. Jagdpanther được lắp trên khung tăng Panther. Nó tham gia cuộc
phải|nhỏ|Hai chiếc PTHCT M10 của quân [[Mỹ tại Pháp]] **Pháo chống tăng** (tiếng Anh: **tank destroyer** hay **tank hunter**) là một loại chiến xa được thiết kế riêng để chống lại các phương tiện cơ
**Panzerjäger Tiger Ausf. B Jagdtiger (Sd. Kfz. 186)** là tên một loại pháo tự hành hạng nặng thuộc sư đoàn Jagdpanzer phục vụ lực lượng quân đội Đức Quốc xã từ năm 1944 đến cuối
nhỏ|350x350px|Pháo tự hành [[Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|Nga 2S19 Msta]]Một khẩu đội pháo tự hành [[Quân đội Anh|Anh AS-90 đang khai hỏa tại Basra, Iraq, 2006. ]] **Pháo tự hành** (tiếng Anh là
**Pháo tự hành M12** 155 mm là một loại pháo tự hành do quân đội Mỹ phát triển và được sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. ## Sản xuất Chỉ có khoảng
là một loại lựu pháo tự hành do tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries và Japan Steel Works phát triển, sau đó được trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản (JGSDF). Nó
**SU-100** là tên một loại pháo tự hành chống tăng của Liên Xô. Nó được Hồng quân Xô Viết sử dụng rộng rãi trong năm 1945, năm cuối cùng của chiến tranh Xô-Đức. SU-100 là
thumb|Một lính Phe đồng minh đứng bên cạnh Pháo tự hành chống tăng Hetzer bị kíp lái của phát xít Đức bỏ lại Pháo tự hành chống tăng **Jagdpanzer 38 "Hetzer"** (tạm dịch "mồi nhử")
**Marder III** là tên một loại pháo tự hành chống tăng thuộc sê-ri **Marder** (Chồn mactet) được lắp ráp trên thân tăng Panzer 38(t). Chúng được sản xuất từ năm 1942 đến năm 1944 và
**Jagdpanzer IV**(_Sd. Kfz. 162_) là tên một loại pháo tự hành diệt tăng phục vụ cho lực lượng Đức Quốc xã trong thời kì gần cuối Thế chiến II. Jagdpanzer IV được lắp ráp dựa
**SU-85** là tên một loại pháo tự hành chống tăng được lắp ráp trên khung gầm xe tăng T-34 đã được sửa đổi phục vụ cho lực lượng tăng thiết giáp Xô-Viết trong thế chiến
Pháo tự hành chống tăng **Elefant** (tên tiếng Anh: _"elephant"_ (con voi); số sê-ri Sd.Kfz. 184, tiếng Đức _Panzerjäger Tiger (P) Elefant_) còn có tên gọi khác là Ferdinand, là tên một loại pháo tự
**Marder I** "Marten" (_SdKfz 135_) là tên một loại pháo tự hành chống tăng phục vụ lực lượng Đức Quốc xã trong thế chiến II.Marder I được trang bị pháo 75 mm.Phần lớn Marder I được
**Marder II** là tên một loại pháo tự hành diệt tăng phục vụ cho lực lượng Đức Quốc xã trong thế chiến II. Nó được lắp ráp dựa trên khung tăng Panzer II và trang
**Ho-Ni I Kiểu 1** (一式砲戦車 ホニ I Isshiki ho-sensha?) là một kiểu pháo tự hành chống tăng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến
Hình về pháo chống tăng Sprut 125 ly. **2A45 _Sprut-A**_, **2A45M _Sprut-B_** và **2S25 _Sprut-SD**_ (phân loại của NATO - _Squid_) là một dòng pháo chống tăng nòng trơn 125 ly do Liên Xô sản
**Đạn tự hành**, **phi đạn** hay **tên lửa tự hành** là hệ thống đạn dẫn đường chính xác tự di chuyển đến mục tiêu và tác động vào đường đi trong khi di chuyển để
**Ho-Ni III Kiểu 3** (三式砲戦車 ホニIII San-shiki hōsensha?) là một kiểu pháo tự hành chống tăng hay pháo tự hành được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ
**_Charioteer_** hay **FV4101 Cromwell** hoặc **xe tăng hạng trung FV4101**, Charioteer là một loại pháo tự hành chống tăng.Nó được sản xuất vào những năm 1950 và phục vụ trong các đơn vị tại Tây
**FV438 Swingfire** là tên một loại xe bọc thép chống tăng của quân đội Anh. Nó được phát triển từ dòng FV340 và thêm hệ thống phóng tên lửa Swingfire. FV438 có tổng cộng hai
thumb|Pháo chống tăng tự hành M10 tại Pháp **Pháo chống tăng tự hành M10** (còn được biết với biệt danh "**Wolverine**") là một trong những dòng pháo chống tăng thành công nhất của Hoa Kỳ
**Nashorn**, còn được biết đến dưới tên gọi Hornisse, là một loại pháo tự hành diệt tăng trong thế chiến II của Đức Quốc xã. Nó được thiết kế vào năm 1942. Bỏ qua một
**Panzerjäger I**(tên tiếng Anh:_tank hunter_-tạm dịch:sát thủ tăng) là tên một loại pháo tự hành diệt tăng của Đức Quốc xã trong thế chiến II. Nó là chiếc pháo tự hành diệt tăng duy nhất
**SU-152** là tên của một loại lựu pháo tự hành bánh xích bọc thép cỡ nòng 152mm của Liên Xô được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. SU-152 được trang bị một
**ISU-152** là một pháo tự hành xung kích bọc thép của Liên Xô dùng trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Sau chiến tranh, ISU-152 tiếp tục được sử dụng - chủ yếu trong
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
**Xe tăng Iosif Stalin** (hay **Xe tăng IS**), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng
**Sturmgeschütz III** (StuG III) là tên một loại pháo tự hành trong thế chiến II. StuG III là loại pháo tự hành lắp trên khung xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong tất cả
nhỏ|Pháo phòng không tự hành [[ZSU-23-4 Shilka của Liên Xô]] **Xe phòng không**, hay còn gọi là **pháo phòng không tự hành** (**SPAAG**) hoặc **hệ thống phòng không tự hành** (**SPAD**), là một loại phương
Heuschrecke 10(tiếng Anh:Grasshopper 10) là tên một mẫu thử nghiệm pháo tự hành và phương tiện mang theo vũ khí(tiếng Đức: Waffenträger -tiếng Anh:weapon carrier) được phát triển bởi Krupp-Gruson vào giữa năm 1943-1944.Tên kĩ
**2S25 Sprut-SD** là pháo chống tăng tự hành, được thiết kế để tiêu diệt các loại xe tăng, các khẩu đội pháo, xe bọc thép chở quân và các loại mục tiêu di động hay
**ZiS-30** (tiếng Nga **ЗиС-30**) là tên của một loại pháo tự hành hạng nhẹ được Hồng Quân Liên Xô chế tạo và sử dụng trong thế chiến II. Nó được thiết kế cấp tốc và
**Lục quân Hoàng gia Nam Tư** là lực lượng vũ trang của Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia và sau đó là Vương quốc Nam Tư từ lúc kiến lập quốc gia cho
**ISU-122** () là một loại pháo tự hành xung kích bánh xích bọc thép cỡ nòng 122mm do Liên Xô sản xuất trong Thế chiến thứ hai dựa trên pháo tự hành chống tăng SU-122,
Tổ hợp chiến xa cơ sở **Kurganets-25** () là một hệ thống xe bệ thiết giáp bánh xích hạng trung được thiết kế cho Lục quân Nga. Hệ thống xe bệ này là cơ sở
**Bảo tàng Vũ khí bọc thép ở Poznań** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Broni Pancernej w Poznaniu_) là một bảo tàng nằm bên trong khuôn viên của nơi trước đây từng là doanh trại, gần sân
nhỏ|Pháo tự động cỡ nòng 30mm kiểu [[Shipunov 2A42|2A42 trên xe chiến đấu bộ binh BMP-2 của Quân đội nhân dân Việt Nam]] **Pháo tự động** () là một loại súng tự động có khả
**Pháo M-46 130 mm** là loại pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Nhà máy Pháo binh số 9 của Liên Xô thiết kế từ năm 1947, đến năm 1951 thì bắt đầu
**FV102 Striker** là tên một loại xe chở tên lửa điều khiển chống tăng thuộc dòng CVR(T) và phục vụ cho quân đội Anh. ## Sơ lược FV102 Striker sử dụng tên lửa điều khiển
Sau đây là danh sách của các loại đạn được sử dụng bởi các loại pháo nòng trơn điển hình dùng trên T-64,T-72,T-80,M-84,T-90,PT-91,T-14 Armata, Pháo tự hành chống tăng Sprut ## Đạn xuyên giáp động
**M4 Sherman,** tên chính thức là **Xe tăng hạng trung M4** (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng
**Xe tăng T–34** là một xe tăng hạng trung sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1940 đến năm 1958, chủ yếu được sử dụng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945). T-34 đã
**T-72** là xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) của Liên Xô, được sản xuất vào năm 1971 và ra mắt vào năm 1977. Mặc dù có hình dạng rất giống T-64, T-72 được các
**Xe tăng Panther** (_Con Báo_) là tên một loại xe tăng hạng trung phục vụ cho quân đội Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm
**_Panzerkampfwagen_ IV** (Pz.Kpfw. IV), thường được gọi là **Panzer IV,** là xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã được thiết kế vào cuối những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong Chiến
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**T-62** là thế hệ xe tăng hạng trung kế tiếp và phiên bản cải tiến của xe tăng T-54/55 do Liên Xô nghiên cứu thiết kế, được đưa vào sản xuất hàng loạt năm 1961
là kiểu xe tăng hạng trung được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, thay thế