✨Panzer III

Panzer III

Panzer-III là tên một loại xe tăng hạng trung do Đức phát triển vào những năm 1930 và sử dụng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tên kĩ thuật đầy đủ của Panzer III là Panzerkampfwagen III (PzKpfw III) - dịch sang tiếng Anh:"armoured battle vehicle" - tạm dịch: phương tiện chiến đấu bọc thép. Nó được thiết kế nhằm mục đích hỗ trợ bộ binh và tấn công lực lượng thiết giáp quân địch.

Trong chiến dịch Ba Lan năm 1939 và chiến dịch Pháp năm 1940, Panzer III đã thể hiện khá tốt. Nhưng đến năm 1941, Panzer III gặp phải hai đối thủ mới từ Liên Xô, đó chính là T-34 và dòng KV. Hai loại tăng này đều có pháo chính và lớp giáp dày và mạnh hơn rất nhiều so với Panzer III. Ngay lập tức, Panzer IV được nâng cấp để trang bị pháo chính 7.5 cm KwK-40 để thay thế vai trò đấu tăng của Panzer III, còn Panzer III thì được chuyển sang dùng pháo nòng ngắn 7.5 cm KwK-37 L/24 với vai trò chính là hỗ trợ bộ binh. Việc sản xuất Panzer III nhằm phục vụ cho chiến trường chính thức kết thúc vào năm 1943, tuy nhiên khung tăng của nó vẫn còn được sản xuất đến tận năm 1944 để cung cấp cho pháo tự hành diệt tăng StuG III.

Lược sử phát triển

Vào ngày 11/1/1934, tướng Heinz Guderian đứng đầu lực lượng quân đội Đức dự định thành lập một dự án phát triển xe tăng hạng trung mới, thoả mãn những yêu cầu như trọng lượng tối đa 24.000 kg và đạt tốc độ tối đa khoảng 35 km/h. Nó được thiết kế nhằm bổ sung thêm cho lực lượng thiết giáp Đức bấy giờ.

Tất cả các hãng sản xuất thiết giáp nổi tiếng nhất nước Đức như Daimler-Benz, Krupp, MAN, và Rheinmetall đều được chỉ thị sản xuất các mẫu mã. Việc thử nghiệm và xem xét các bản thiết kế của các tập đoàn được thực hiện vào năm 1936-1937. Cuối cùng bản thiết kế của tập đoàn Daimler-Benz được chọn làm mẫu chính để sản xuất. Panzer III Ausf. A (mẫu đầu tiên) được đưa vào sản xuất chính thức vào tháng 5/1937, mười chiếc được sản xuất (trong đó có hai chiếc không được lắp ráp vũ khí). Việc sản xuất phiên bản Panzer III Ausf. F bắt đầu vào năm 1939.

Vào giữa năm 1937-1940, tập đoàn Krupp và Daimler-Benz bắt đầu việc nghiên cứu và chuyển đổi bộ phận nhằm chuẩn bị cho quá trình thiết kế Panzer IV.

Sau khi sản xuất được một vài mẫu, vấn đề thay thế bộ phận treo hiện tại bằng một hệ thống khác hoàn chỉnh hơn được đặt ra. Một vài hệ thống treo đã được lắp ráp thử nghiệm trên Panzer III Ausf. A và Ausf. D. Hãng Daimler-Benz chọn thanh xoắn chuyển động lực làm bộ phận treo cho dòng Panzer III. Trong thời điểm này, Panzer III và KV là hai loại tăng duy nhất sử dụng hệ thống treo này.

Khi được xuất xưởng, Panzer III những tính năng tiên tiến ở thời điểm đó như: tháp pháo chứa 3 người - giúp hỗ trợ một cách tốt nhất trong việc phòng thủ, liên lạc cũng như điều khiển vũ khí; một pháo chính 37mm và hai súng máy phụ; hệ thống treo mới giúp cho động cơ có sức vận động mạnh và nhanh hơn. Panzer III đã từng làm mưa làm gió trên chiến trường, nhưng đến khi hai dòng tăng chủ lực của Liên Xô là T-34 và KV (KV-1 và KV-2) xung trận thì Panzer III đã tỏ ra yếu thế hơn. Chính vì thế, dự án nâng cấp Panzer III do Daimler-Benz thành lập nhằm thay pháo chính của Panzer III lên pháo có cỡ nòng 50 mm, tăng cường lớp vỏ giáp phần trước và sườn. Sau khi dự án hoàn thành, Panzer III đã trở nên ngang bằng với các phiên bản đầu của T-34 trong một số tiêu chí, nhưng vẫn yếu hơn về hỏa lực.

Vào năm 1942, phiên bản cuối cùng của Panzer III là Ausf. N được hoàn thành. Ausf-N được trang bị pháo chính nòng ngắn 7.5 cm KwK-37 L/24 chuyên dùng để diệt lô cốt và bộ binh (vai trò mang pháo nòng dài chống tăng đã được chuyển cho Panzer IV cải tiến). Để tăng sức công phá, Panzer III Ausf. N có thể sử dụng loại đạn xuyên giáp có sức xuyên từ 70–100 mm, đủ để phá được giáp hông của T-34. nhỏ|phải|Thiết kế đĩa xích của các phiên bản Panzer III Phát xít Nhật có đặt mua hai chiếc Panzer III từ Đức Quốc xã với mục đích sử dụng để nghiên cứu và thử nghiệm, tuy nhiên do quân Nhật không chú trọng lắm vào việc chế tạo thiết giáp mà chỉ lo chế tạo các loại chiến hạm, hàng không mẫu hạm cũng như tàu ngầm nên mặc dù mua từ Đức Quốc xã nhưng số tăng này nhanh chóng bị di chuyển vào các kho hàng. Đến năm 1943, phát xít Đức dừng việc chuyển xe tăng Panzer III cho lục quân Nhật.

Lớp giáp bọc

Phiên bản Panzer III Ausf. A đến phiên bản Ausf. C đều có lớp giáp trên nóc xe bằng thép dày 10 mm, phần sau dày 5 mm. Tuy nhiên do lớp giáp bọc này quá mỏng khiến cho việc bảo vệ kíp chiến đấu cũng như xe tăng rất yếu, dẫn đến việc bọc giáp lại phần trước, sườn và phía sau đều dày trên 30 mm. Tất cả các phiên bản Ausf. D, E, F và G đều được thu hồi và bọc giáp lại. Panzer III Ausf. H là phiên bản duy nhất có phần giáp bọc bằng thép dày hơn 30 mm ở mặt trước và sau. Ausf. J có lớp giáp bằng kim loại dày 50 mm ở mặt trước, sườn và sau. Các phiên bản về sau này như Ausf. J(1), L và M có lớp giáp dày 20 mm trên đỉnh và phần giữa khung, dày 70 mm ở mặt trước xe.

Sau khi dự án cải thiện phần giáp được hoàn thành, Panzer III đã có lớp giáp bọc khá dày, khiến cho nó trở nên khó bị xuyên thủng bởi các loại pháo chống tăng cỡ nhỏ của Liên Xô và Đồng Minh. Tuy nhiên, giáp trước xe vẫn dễ bị chọc thủng nếu bị trúng đạn pháo chống tăng cỡ nòng từ 75mm trở lên, giáp hông thì vẫn có thể bị xuyên thủng bởi pháo chống tăng cỡ 40mm trở lên.

Vũ khí

nhỏ|Panzerbefehlswagen (tăng chỉ huy) III Ausf E hoặc F (trang bị pháo chính 37 mm và hai súng máy) tại Hy Lạp Panzer III đời đầu được gắn pháo 37 mm. Các phiên bản cải tiến được trang bị pháo chính 50 mm, vì pháo 50 mm yêu cầu tăng phải có diện tích trống rộng hơn nên phần đai trục nòng tăng được thiết kế to ra, thân tăng được làm rộng hơn.

Từ phiên bản Ausf-A đến Ausf-F đều được trang bị pháo chính 3,7 cm KwK-36 L/46.5, tuy nhiên loại pháo này có sức xuyên giáp và công phá kém, dẫn đến việc trang bị lại pháo 5 cm KwK-38 L/42 cho các phiên bản Ausf-F và J. Phiên bản Ausf-J(1) và M được lắp pháo 5 cm KwK-39 L/60 dài và mạnh hơn. Pháo 50mm của phiên bản Ausf J(1) có sức công phá khá mạnh, điều này đã được thể hiện tại chiến trường Bắc Phi. Khi đối đầu với xe tăng Anh, Ausf. J(1) đã dễ dàng bắn hạ các loại xe tăng của Anh ở cự ly chiến đấu thông thường.

Vào năm 1942, khi Panzer IV và Panther trở thành hai loại xe tăng chủ lực của Đức Quốc xã trên chiến trường thì Panzer III được chuyển thành xe tăng hỗ trợ bộ binh. Nó được trang bị pháo nòng ngắn 7.5 cm KwK-37 L/24, trước đó vốn được dùng trong các phiên bản Panzer IV Ausf. A hoặc F.

Các phiên bản đời đầu đều có trang bị hai súng máy phụ 7,92 mm MG-34 nối bằng trục gần hai pháo chính. Nhưng từ phiên bản Ausf. G trở đi thì số súng phụ giảm xuống chỉ còn một khẩu MG-34 và một thanh đồng trục nối vào thân.

Độ linh động

nhỏ|phải|Động cơ của Panzer III Panzer III Ausf. A-C đều được trang bị động cơ Maybach HL 108 TR(12 xi lanh, 250 mã lực) có thể đạt vận tốc tối đa vào khoảng 35 km/h và hoạt động trong tầm 150 km. Các phiên bản đời sau được trang bị lại động cơ Maybach HL 120 TRM (12 xi lanh, 300 mã lực) đều có vận tốc tối đa vào khoảng 40 km/h (còn tuỳ thuộc vào bộ truyền lực, sự hoạt động của tay đòn lực cũng như trọng lượng), và tầm hoạt động tăng thêm 5 km nữa lên 155 km.

Chi phí

Một vài nguồn của Đồng Minh tính rằng Panzer III Ausf. N có giá thành là 96.163 RM, khá rẻ so với các loại xe tăng hạng trung và hạng nặng khác của Đức: 82.500 RM của StuG-III, 103.462 RM của Panzer IV Ausf. G, 117.100 RM của xe tăng Panther, và 250.800 RM của Tiger I. Các số liệu chi phí trên không kể giá thành vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm

Nếu tính cả chi phí cho vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm thì mỗi chiếc Panzer III Ausf. M có giá thành là 103.163 RM

Lịch sử hoạt động

Panzer III tham gia tất cả các chiến dịch từ châu Âu đến Bắc Phi. Một bộ phận các sư đoàn tinh nhuệ Panzer III có tham gia trận Normandy vào năm 1944.

Trong chiến dịch Ba Lan và Pháp, chỉ có vài trăm chiếc Panzer III được huy động tham gia chiến đấu. Các phiên bản Ausf. A-F với lớp giáp gần 50 mm và được trang bị pháo chính 37 mm vẫn đủ để đánh bại các loại xe tăng hạng trung của Anh, Ba Lan và Pháp như 7TP, R-35 và H-35 một cách khá dễ dàng trong các trận đấu trực diện. Panzer III được đánh giá là loại tăng hạng trung tốt nhất thời bấy giờ.

nhỏ|Một chiếc Panzerkampfwagen III tại bảo tàng chiến tranh Mỹ, Aberdeen, Maryland

Trong Chiến dịch Barbarossa, Panzer III là loại tăng hạng trung chính của Đức với số lượng được huy động tới hơn 1.000 chiếc. Cũng trong thời điểm này, các phiên bản mới như Ausf. E-F-G và H (được trang bị pháo chính 50 mm KwK L/42) đều được xuất xưởng và đưa thẳng ra chiến trường. Tuy nhiên, số Panzer III đã vấp phải khó khăn khi đối đầu với các loại xe mới của Liên Xô là T-34 và KV-1, ngay lập tức các mẫu Panzer IV nâng cấp đầu tiên được gấp rút sản xuất để có thể cân bằng lại mặt trận. Nhưng số lượng T-34 và KV khi đó chưa nhiều, chiếm đa số lực lượng xe tăng Liên Xô khi đó là xe tăng hạng nhẹ như T-26 và xe tăng BT, chúng có hỏa lực và vỏ giáp đều kém hơn nhiều so với Panzer III. Số Panzer III với kíp lái được rèn luyện kĩ, vũ khí và lớp giáp bọc tốt đã đánh bại và tiêu diệt các xe tăng hạng nhẹ Liên Xô một cách dễ dàng, đánh một tỉ lệ 6:1-nghiêng về phe Đức.

Cuối chiến dịch Barbarossa, hai dòng tăng T-34 và KV đã được Liên Xô nhân rộng sản xuất. Ngay lập tức, Panzer III được cải tiến lại với pháo chính 50 mm L/42. Nhưng phiên bản cải tiến này vẫn không thể bắn xuyên giáp trước của T-34 và KV. Vào mùa xuân 1942, dự án thay thế pháo chính hiện tại bằng pháo 50 mm KwK-39 L/60 lắp trên Panzer III Ausf.J(1) được hoàn thành. Điều bất ngờ đã xảy ra khi phiên bản J(1) có thể xuyên được giáp trước của T-34 từ khoảng cách 500 m và tốn nhiều lần bắn để có thể xuyên thủng được giáp của KV.

Vào năm 1943, phiên bản Ausf. L được lắp thêm phần giáp váy (schürzen) để chống lại lựu đạn và các loại đạn pháo chống tăng. Trong trận vòng cung Kursk, phiên bản Panzer III Ausf.N với pháo 75 mm L/24 có nhiệm vụ chính là hỗ trợ bộ binh, nhường lại vai trò đấu tăng cho Panzer IV và Panther (xe tăng con báo).

Panzer III được thiết kế để trở thành xe tăng có tháp pháo chứa ba người (pháo thủ, người nạp đạn và chỉ huy). Vì thế chỉ huy tăng có thể tập trung vào việc điều khiển và quan sát bên ngoài lẫn bên trong. Đa số các loại tăng vào thập niên 1930 đều chưa có cách thiết kế này. Kiểu kíp lái này có ưu điểm là: kíp lái có thể linh động theo tình huống, chỉ huy có thể tập trung vào việc quan sát, không phải kiêm nhiệm pháo thủ nên tốc độ quan sát tình huống và phát hiện mục tiêu sẽ nhanh hơn. Nhưng Panzer III vẫn có nhược điểm là: không có người phụ trách điều khiển điện đàm giúp cho việc chuyển tải thông tin không được thông suốt.

Biến thể

  • Panzer III Ausf.A-B-C-D: sản xuất vào năm 1937-1938. 75 chiếc các loại được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.E-F: bắt đầu sản xuất từ năm 1939-1940. Trang bị pháo chính 3.7 cm KwK 36 L/46.5 (sau này thay lại bằng pháo 5 cm KwK 38 L/42). 531 chiếc các loại được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.G: bọc thêm giáp phần trước và tháp pháo. Trang bị pháo chính 5 cm KwK 38 L/42. Từ năm 1940-1941, có khoảng 600 chiếc được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.H: sửa đổi chút ít lại kết cấu. Bọc thêm giáp phần trước và phần sau (tổng cộng 60 mm phần trước gồm 30 mm giáp bọc và 30 mm phần bảo vệ đĩa). Từ năm 1940-1941, có khoảng 308 chiếc được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.I: biến thể có trong bản báo cáo của quân Đồng Minh, tuy nhiên không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng đã từng có loại biến thể này.
  • Panzer III Ausf.J: phần thân xe tăng được thiết kế lại dài hơn. Phần giáp trước dày 50 mm. Có 482 chiếc được sản xuất vào năm 1941.
  • Panzer III Ausf.J(1): được trang bị lại pháo chính 5 cm KwK 39 L/60 dài và mạnh hơn để đối phó với xe tăng T-34 của Liên Xô. Từ cuối năm 1941 đến giữa năm 1942, có khoảng 1.067 chiếc được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.K: phiên bản xe tăng chỉ huy (Panzerbefehlswagen) với tháp pháo được sửa chữa lại (không có vũ khí - lắp pháo giả). Thiết kế ngăn chứa đạn và chỗ trống bên trong rộng hơn.
  • Panzer III Ausf.L: tăng giáp trước lên 70 mm (giáp trước+phần bảo vệ đĩa). Có 653 chiếc được sản xuất vào năm 1942.
  • Panzer III Ausf.M: phiên bản được sửa chữa nhỏ ở phần sáng gầm và giáp váy. Từ năm 1942-1943, có khoảng 250 chiếc được sản xuất.
  • Panzer III Ausf.N: phiên bản cuối cùng được sản xuất, trang bị pháo chính nòng ngắn 7.5 cm KwK 37 L/24, chuyên sử dụng loại đạn nổ mảnh để phá lô cốt và diệt bộ binh. Từ năm 1942-1943, có khoảng 700 chiếc được sản xuất. Image:Bundesarchiv Bild 101I-318-0083-30, Polen, Panzer III mit Panzersoldaten.jpg|Ausf. D, Ba Lan (1939) Image:The British Army in North Africa 1941 E2687.jpg|Chiếc Ausf.G bị quân Anh bắt tại Bắc Phi(1941). Image:PzKpfwIIIF.Saumur.000a1y8q.jpg|Ausf. H tại bảo tàng Musée des Blindés, Saumur. Image:Bundesarchiv Bild 101I-748-0089-10, Russland, Soldat auf Panzer III J.jpg|Ausf. J, Liên Xô (1942). Image:Panzerkampfwagen III 4.jpg|Ausf. L, US Army Ordnance Museum (2007) Image:SdKz141-1-1.jpg|Ausf. M, Deutsches Panzermuseum (2005) Image:Bundesarchiv Bild 101I-219-0595-23, Russland-Mitte-Süd, Panzer III.jpg|Phiên bản Ausf. M được lắp thêm giáp váy (1943) Image:Panzerkampfwagen III 1.jpg|Panzer III Ausf.E

Các mẫu tăng thiết kế dựa trên khung tăng Panzer III

  • Artillerie-Panzerbeobachtungswagen III: pháo tự hành, 262 chiếc được sản xuất.
  • Bergepanzer III: thiết kế dựa trên khung tăng Panzer III nhưng được bọc giáp dày hơn.
  • Flammpanzer III Ausf. M / Panzer III (F1): xe tăng phun lửa, 100 chiếc được sản xuất dựa trên khung tăng Panzer III Ausf.M.
  • Minenräumer III: xe dò mìn, được trang bị hệ thống giảm xóc cao, chưa bao giờ được sản xuất.
  • Panzerbefehlswagen III: xe tăng chỉ huy, được trang bị pháo giả, bọc giáp dày và có bộ điện đàm hiện đại.
  • Sturm-Infanteriegeschütz 33B: pháo tự hành xung kích, trang bị pháo chính 15 cm sIG-33. 24 chiếc được sản xuất.
  • Sturmgeschütz III: pháo tự hành xung kích và diệt tăng, trang bị pháo chính 75 mm StuK.
  • SU-76i (Liên Xô): được thiết kế dựa trên khung tăng Panzer III và StuG-III mà Hồng Quân bắt được. Hơn 1200 mẫu khung này được chuyển đến các nhà máy để sản xuất, nhưng chủ yếu chuyển đến nhà máy số 38 tại Stalingrad. Số khung tăng được lược bỏ phần trên thay vào đó là tháp pháo mới có trang bị pháo chính 76.2 mm ZiS-5. Phần đặt pháo được bọc giáp dày hơn 60 mm, 50 mm ở phần trước và 30 mm ở phần sườn. SU-76i lần đầu tham trận vào mùa thu năm 1943. Hiện tại còn lại hai chiếc SU-76i: chiếc thứ nhất được trưng bày tại đài tưởng niệm tại Ukraina; chiếc thứ hai được trưng bày tại bảo tàng trên đồi Poklonnaya, Mát-xcơ-va.
  • Tauchpanzer III: một vài chiếc được chế tạo dựa trên khung tăng Panzer III thành tăng lội nước để tham gia chiến dịch Sư tử biển. Image:Bundesarchiv Bild 101II-MW-5674-45, Übungen mit Panzer III für Unternehmen Seelöwe.jpg|Tauchpanzer III đang được thử nghiệm. Image:Bundesarchiv Bild 101I-185-0137-14A, Jugoslawien, Panzer III in Fahrt.jpg|_Panzerbefehlswagen_, Balkans, 1941. Image:STU 40.jpg|Sturmgeschütz III của quân đội Phần Lan. Image:Bundesarchiv Bild 101I-732-0114-16, Russland - Mitte, Flammenwerfer-Panzer.jpg|Flammpanzer III
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Panzer-III** là tên một loại xe tăng hạng trung do Đức phát triển vào những năm 1930 và sử dụng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tên kĩ thuật đầy đủ của
**_Panzerkampfwagen_ IV** (Pz.Kpfw. IV), thường được gọi là **Panzer IV,** là xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã được thiết kế vào cuối những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong Chiến
**Sturmgeschütz III** (StuG III) là tên một loại pháo tự hành trong thế chiến II. StuG III là loại pháo tự hành lắp trên khung xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong tất cả
**_Panzer II_** là một loại xe tăng hạng nhẹ do Đức Quốc xã sản xuất và sử dụng trong thế chiến II. Tên chính thức của nó bằng tiếng Đức là _Panzerkampfwagen II_ (viết tắt
nhỏ|Xe tăng chiến trường (_Kampfpanzer_) [[Leopard 2, một loại xe tăng chủ lực hiện đại của Đức]] **Panzer** () trong tiếng Đức có nghĩa là "bọc giáp". Trong một vài trường hợp, thuật ngữ này
Xe tăng **Panzerkampfwagen I**, hay **Sonderkraftfahrzeug (SdKfz) 101**, được viết tắt là **PzKpfw I** nhưng được biết nhiều nhất dưới cái tên **Panzer I** là loại xe tăng hạng nhẹ được sản xuất bởi Đức
**Marder III** là tên một loại pháo tự hành chống tăng thuộc sê-ri **Marder** (Chồn mactet) được lắp ráp trên thân tăng Panzer 38(t). Chúng được sản xuất từ năm 1942 đến năm 1944 và
**_Panzer General_** là một wargame lấy bối cảnh Thế chiến II do hãng Strategic Simulations đồng phát triển và phát hành vào năm 1994. ## Tổng quan _Panzer General_ thuộc thể loại chiến thuật theo
**Sư đoàn Panzer số 4** () là một sư đoàn bọc thép trong Quân đội Đức, Wehrmacht, trong Thế chiến II, được thành lập năm 1938. Sư đoàn Panzer số 4 tham gia vào cuộc
**_Close Combat III: The Russian Front_** (tạm dịch: _Chiến đấu gần - Mặt trận nước Nga_) là tựa game chiến thuật thời gian thực do hãng Atomic Games phát triển và Microsoft Game Studios phát
**Tiger I** là một loại xe tăng hạng nặng của Đức được sử dụng trong Thế chiến II, được sản xuất từ cuối năm 1942 như một loại tăng đương đầu với sức kháng cự
**Xe tăng Panther** (_Con Báo_) là tên một loại xe tăng hạng trung phục vụ cho quân đội Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**M4 Sherman,** tên chính thức là **Xe tăng hạng trung M4** (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng
**Trận nước Bỉ** hay **Chiến dịch nước Bỉ** là một phần trong trận chiến nước Pháp, cuộc tấn công lớn của Đức Quốc xã tại Tây Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc
**Xe tăng T–34** là một xe tăng hạng trung sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1940 đến năm 1958, chủ yếu được sử dụng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945). T-34 đã
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**KV** là tên một dòng tăng hạng nặng lấy tên viết tắt của nhà chính trị-quân sự nổi tiếng Liên Xô Kliment Voroshilov. Dòng xe KV phục vụ cho quân đội Liên Xô từ trước
**Hummel (Bumble-Bee)** là tên loại pháo tự hành dựa trên khung tăng của Panzer III và Panzer IV và được trang bị pháo với cỡ nòng 15 cm. Hummel được sản xuất và sử dụng bởi
phải|nhỏ|Hai chiếc PTHCT M10 của quân [[Mỹ tại Pháp]] **Pháo chống tăng** (tiếng Anh: **tank destroyer** hay **tank hunter**) là một loại chiến xa được thiết kế riêng để chống lại các phương tiện cơ
Xe tăng hành trình **Mk VI**, hoặc **A15 Crusader**, là một trong loại xe tăng hành trình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong giai đoạn đầu Thế chiến thứ hai và
**SdKfz 124 Wespe**(còn được biết dưới cái tên _Leichte Feldhaubitze 18 auf Fahrgestell Panzerkampfwagen II_) là tên của một loại pháo tự hành phục vụ lực lượng Đức Quốc xã trong thế chiến II.Wespe được
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
Một khẩu súng thần công của [[Đế quốc Nga.]] **Súng thần công** (tiếng Anh: _cannon_) là một loại pháo sử dụng thuốc súng hoặc thường là các loại nhiên liệu có nguồn gốc chất nổ
Xe tăng M3 là một chiếc xe tăng hạng trung của Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ II. Tại Anh, xe tăng được gọi bằng hai cái tên dựa trên kết
**M3 Stuart,** tên chính thức là **Xe tăng hạng nhẹ, M3** (Light Tank, M3), là một loại xe tăng hạng nhẹ được sử dụng rộng rãi bởi quân Đồng Minh phuơng Tây trong Thế chiến
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
phải|Hình ảnh tiêu biểu của các binh đoàn cơ động [[Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ 2, bao gồm xe tăng, bộ binh cơ giới hoá và các binh chủng hỗ trợ.]] **Blitzkrieg**, (
**Trận Gazala** là một trận chiến quan trọng thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trên Mặt trận Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra xung quanh thành phố cảng Tobruk tại
**Marder II** là tên một loại pháo tự hành diệt tăng phục vụ cho lực lượng Đức Quốc xã trong thế chiến II. Nó được lắp ráp dựa trên khung tăng Panzer II và trang
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
nhỏ|Pháo 3.7 cm KwK 36 L/45 lắp trên Panzer III **3.7 cm KwK 36 L/45**(_3.7 cm Kampfwagenkanone 36 L/45_) là tên một loại pháo có cỡ nòng 3.7 cm của Đức Quốc Xã được dùng với khá
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Trận El Alamein thứ nhất** (1–27 tháng 7 năm 1942) là một trận đánh thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên bờ biển phía bắc Ai
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**5 cm KwK 38 L/42**(_5 cm Kampfwagenkanone 38 L/42_) là tên một loại pháo có cỡ nòng 5 cm do quân đội Đức thiết kế nhằm làm vũ khí chính cho biến thể của tăng Panzer III.Nó
**Chiến dịch Battleaxe** là một chiến dịch quân sự do Lực lượng Sa mạc Tây (Anh) tổ chức trên Mặt trận Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhằm tống khứ quân Trục
**Nashorn**, còn được biết đến dưới tên gọi Hornisse, là một loại pháo tự hành diệt tăng trong thế chiến II của Đức Quốc xã. Nó được thiết kế vào năm 1942. Bỏ qua một
**Karabin przeciwpancerny wzór 35** (Viết tắt là **kb ppanc wz. 35** hay **Wz. 35** - "Súng trường chống tăng kiểu năm 1935") là súng trường chống tăng do Ba Lan thiết kế chế tạo. Súng
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**T-70** là loại xe tăng hạng nhẹ được Hồng quân sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai để thay thế hai xe tăng hạng nhẹ khác là T-50 và T-60. ## Lịch sử
**Trận Monthermé** là một trong các trận đánh khai màn Chiến dịch nước Pháp thời Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 5 năm 1940 ở bán
5 cm KwK 39 lắp trên xe bọc thép Sd. Kfz. 234/2 Schwerer Panzerspähwagen "Puma" **5 cm KwK 39 L/60**(_5 cm Kampfwagenkanone 39 L/60_) là tên một loại pháo với cỡ nòng 5 cm do quân đội
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Schwerer Panzerspähwagen** là tên một loại xe thiết giáp, sử dụng 6 hoặc 8 bánh hơi do Đức Quốc xã thiết kế và sử dụng trong Thế chiến thứ hai. Trong quân đội Đức Quốc
**Phương diện quân Kalinin** (tiếng Nga: _Калининский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Kalinin được thành