Nguyễn Vĩnh Nghi (1932 - ?) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Trung Việt Nam, sau chuyển về Nam Cao nguyên Trung phần. Ông đã tuần tự giữ những chức vụ theo hệ thống quân giai, bắt đầu từ Trung đội trưởng cho đến chỉ huy cấp Quân đoàn. Đầu tháng 4 năm 1975 ông là Tư lệnh phó kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III và Quân khu 3, trách nhiệm phòng tuyến Phan Rang. Tuy nhiên, phòng tuyến nhanh chóng bị thất thủ, ông bị Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam bắt tại mặt trận và trở thành tướng lĩnh cao cấp nhất của Việt Nam Cộng hòa bị bắt làm tù binh trong Chiến tranh Việt Nam.
Tiểu sử và Binh nghiệp
Ông sinh vào tháng 10 năm 1932 tại tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam trong một gia đình khá giả. Ông học văn hóa tại các trường Tiểu học và Trung học tại Gia Định, cuối năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Tháng 6 năm 1951, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.091. Theo học khoá 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường. ông được phục vụ đơn vị Bộ binh, giữ chức Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn Khinh quân Việt Nam. Tháng 8 năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy, được cử lên làm Đại đội trưởng. Giữa năm 1954, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy và được cử vào chức vụ Tiểu đoàn phó.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Đầu tháng 1 năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 31 Bộ binh tân lập do Trung tá Nguyễn Hữu Có làm Tư lệnh. Cuối tháng 5, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tá Hoàng Văn Lạc ông được thuyên chuyển về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng Hành quân.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Cuối tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm thực hiện cải danh Quân đội Quốc gia thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông chuyển biên chế sang phục vụ cơ cấu quân đội mới, tiếp tục giữ chức vụ cũ tại Bộ Tổng Tham mưu. Đầu năm 1960, ông được cử làm Chỉ huy phó (lần thứ nhất) trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Đầu năm 1961 ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp (khóa 1961 - 1) thụ huấn 16 tuần tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 5 cùng năm mãn khoá về nước tái nhiệm chức vụ cũ (lần thứ hai).
Năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày (1 tháng 11). Ngày 3 tháng 11. ông được thăng cấp Trung tá, Xử lý Thường vụ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Đà Lạt trong một thời gian ngắn thay cho Chỉ huy trưởng là Đại tá Trần Ngọc Huyến bị gọi về trình diện Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Đầu tháng 1 năm 1964, khi Thiếu tướng Trần Tử Oai về nhậm chức Chỉ huy trưởng, ông trở lại chức vụ Chỉ huy phó (lần thứ ba) kiêm Tham mưu trưởng của trường.
*Thời gian ông giữ chức Chỉ huy phó trường Võ bị lần thứ ba, trải qua các vị Tư lênh:
-Thiếu tướng Trần Tử Oai (1/1964-1/1964)
-Đại tá Trần Văn Trung (2/1964-9/1964)
-Đại tá Nguyễn Văn Kiểm (6/1964-9/1965)
-Đại tá Lâm Quang Thơ (9/1965-11/1966)
-Đại tá Đỗ Ngọc Nhận (11/1966-7/1968).
Ngày 16 tháng 3 năm 1968, ông chuyển ra đơn vị tác chiến được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh.. Ngày Quân lực 19 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.
Đường binh nghiệp mở rộng khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống. Ngày 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Đầu tháng 5 năm 1972, bàn giao Sư đoàn 21 Bộ binh lại cho Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu. Sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV & Quân khu 4 thay thế Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Đầu tháng 3 năm 1974, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.
Tuy nhiên, trong thời gian ở Quân đoàn IV, ông vướng nhiều các vụ tai tiếng tham nhũng, vì vậy tháng 11 năm 1974, ông buộc phải phải bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV lại cho Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, đổi đi nhậm chức Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức.
1975
Phòng tuyến Phan Rang thất thủ
Cuối tháng 3 năm 1975, khi thế trận của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở phía Bắc lãnh thổ đã hoàn toàn tan vỡ, các đại đơn vị của Quân đoàn I và Quân đoàn II bị tan rã, chỉ còn lại 2 tỉnh phía nam Duyên hải Trung phần là Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngày 4 tháng 4 ông được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức lại cho cấp phó là Đại tá Trần Đức Minh để đi nhận chức Tư lệnh phó Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn đặc trách phòng tuyến Phan Rang chia sẻ một phần trách nhiệm với Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu trước đó 2 ngày đã kiêm nhiệm.
Với mục tiêu ngăn chặn đà tiến công của các lực lượng Cộng sản Bắc Việt. Ngay khi nhận chức, ông đã đặt Bộ Tư lệnh tại phi trường Thành Sơn, Phan Rang (căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân di tản về từ Pleiku), cố gắng tổ chức các đơn vị trên địa bàn để chiến đấu. Ông xác định địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ nên chủ trương chống giữ mặt Bắc và mặt Tây thị xã và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân cũng như an ninh cho Thị xã. Theo chủ trương này, ông xây dựng một kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cỡ 2 Sư đoàn gồm:
-Ở mặt Bắc, trên tuyến Quốc lộ 1, hình thành các cứ điểm trấn giữ các điểm cao tại đèo Du Long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chặn mọi cuộc tấn công hướng vào Thị xã hoặc vào căn cứ.
-Ở mặt Tây, trên tuyến quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, xây dựng một chiến tuyến để bảo vệ mặt tây và nam của sân bay.
Việc bảo đảm an ninh cho Thị xã và sân bay do các đơn vị chính quy phối hợp với quân địa phương phụ trách...
Tuy nhiên, trên thực tế, với lực lượng phòng thủ tại chỗ chỉ còn lại những đơn vị chắp vá và mất tinh thần, lực lượng tăng viện chỉ gồm 1 Lữ đoàn dù (Lữ đoàn 2), phòng tuyến Phan Rang hoàn toàn không đủ sức phòng thủ. Ngay cả nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cũng gần như không thể thực hiện như theo lời Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, thuật lại: "Căn cứ tôi bây giờ rất trống trải, vì một số lớn quân nhân địa phương canh gác ngoài vành đai đã bỏ nhiệm vụ... Ngoài Thị xã, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác phân vân. Trên quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật ních người rầm rộ tiếp nối nhau di tản. Tệ hại hơn nữa là Đà Lạt cũng bỏ chạy...". Các đơn vị chủ lực hầu như mất hết sức chiến đấu với "Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghỉ dưỡng quân thì được tung ra tuyến đầu với quân số thiếu thốn trầm trọng. Sư đoàn 2 Bộ binh vừa tháo chạy từ Quảng Ngãi vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì cũng được ra lệnh phải ra Phan Rang trong khi cả đơn vị còn hoang mang, dao động vì chưa kịp bổ sung thiết bị".
Chuyện gì đến sẽ phải đến. Sau nhiều đợt tấn công trong đêm, vào lúc 7 giờ sáng ngày 16 tháng 4 năm 1975, các đơn vị đi đầu của Quân đội Nhân dân Việt Nam/Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu tấn công trong Thị xã. Đến 9 giờ sáng, căn cứ phi trường Thành Sơn bị tấn công.
:"Đến khoảng 10g, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để duyệt xét tình hình. Khoảng đến 10g30 sáng, khi các toán Cộng quân sắp tiến vào Bộ Tư lệnh tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lệnh rời căn cứ bằng đường bộ... Lúc 9g tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị Cộng quân bắt".
Đoạn cuối con đường
Sau khi ông và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn Không quân 6 bị bắt, cả hai ông nhanh chóng được đưa ra Hà Nội để khai thác. Ông được cho là đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về hệ thống phòng thủ Sài Gòn. Sau đó, ông bị chính quyền mới đưa đi cải tạo ở Suối Dầu, Khánh Hòa, rồi đưa ra cải tạo ở Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra cải tạo ở Sơn Tây cho tới năm 1988 mới được trả tự do. Năm 1992 ông xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Mỹ bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ.
Gia đình
*Phu nhân: Bà Kim Tuyết (con gái của cụ Tô Thị Thân, nguyên Hội trưởng Hội phụ nữ VNCH, nguyên Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Sài Gòn mới, Tòa soạn ở số 39 đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn)
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Vĩnh Nghi ** (1932 - ?) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường
phải **Nguyễn Bá Nghi** (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là **Sư Phần**, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều người biết đến từ khi được cử vào Nam thay thế
**Vinh Nghị Nhân** (1 tháng 5 năm 1916 – 26 tháng 10 năm 2005), nguyên là Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Chính
**Nguyễn Vĩnh Nghiệp** (1931–2007) là một Anh hùng Lao động của Việt Nam. Tuy ông từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nhiều người biết ông như
**Nguyễn Văn Toàn** (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
**Nguyễn Vĩnh Phú,** là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng Việt Nam (2009-2014). ## Thân thế và sự nghiệp * Năm 2007, bổ
**Vinh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nghệ An và là Trung tâm Kinh tế - Văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Hiện nay, địa danh "Vinh" không còn tồn
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Nguyễn Chí Vịnh** (15 tháng 5 năm 1959 – 14 tháng 9 năm 2023), bí danh **Năm Vịnh**, là sĩ quan cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Trà Vinh** là tỉnh ven biển nằm ở cuối sông Tiền và sông Hậu ở miền nam Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Bến Tre, phía đông giáp Biển Đông, phía nam giáp tỉnh Sóc
**Nguyễn Cư Trinh** (chữ Hán: _阮居貞_, 1716-1767), tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, húy là Thịnh, tự là Cư Trinh, hiệu là Đạm Am, Đường Qua và Hạo Nhiên. Ông là danh tướng, danh sĩ
**Nguyễn Đình Đầu** (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nguyễn Xuân Vinh** (3 tháng 1 năm 1930 – 23 tháng 7 năm 2022) nguyên là sĩ quan Không quân cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất
Trong quá trình xâm lược Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long cả thảy hai lần. Trận đầu diễn ra từ ngày 20 cho đến ngày 23 tháng
**Nguyễn Tấn Dũng** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ
**Mai Đức Nghị** (? – 1801) là một võ tướng đã theo chúa Nguyễn Ánh từ những ngày đầu tiên(vua Gia Long sau này) và là một trong số các vị khai quốc công thần
Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh được xếp loại II tuyến tỉnh, số giường kế hoạch 900, thực kê 988 giường; ngoài việc phục vụ bệnh nhân trong tỉnh, Bệnh viện còn tiếp nhận khám
**Nguyễn Khoa Nam** (23 tháng 9 năm 1927 – 1 tháng 5 năm 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh được xếp loại II tuyến tỉnh, số giường kế hoạch 900, thực kê 988 giường; ngoài việc phục vụ bệnh nhân trong tỉnh, Bệnh viện còn tiếp nhận khám
**Nguyễn Văn Hiếu** (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Vĩnh Cát** (sinh năm 1934) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ Việt Nam đạt được thành tựu nhất định trên cả 2 lĩnh vực sáng tác khí
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Giuse Nguyễn Tấn Tước** (sinh 1958) là một Giám mục Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện là Giám mục chính tòa Giáo phận Phú Cường, và Chủ tịch Ủy ban Truyền
**Nguyễn Thúc Thùy Tiên** (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1998) là một nữ người mẫu kiêm nhân vật truyền hình người Việt Nam. Cô từng đạt danh hiệu Á khôi 1 của Hoa khôi
**Nguyễn Triệu Luật** (1903-1946), bút hiệu: **Dật Lang**, **Phất Văn Nữ Sĩ**; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt **Ng̃**) là họ của người Á Đông. Họ Nguyễn là họ người phổ biến nhất của người Việt. Họ Nguyễn cũng xuất hiện tại Triều Tiên và Trung Quốc ()
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Quản lý tài nguyên thiên nhiên** là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất,nước, thực vật, động vật và tập trung chủ yếu về các tác động đến chất lượng cuộc sống
**Nguyễn Dư** (chữ Hán: **阮與**, ?-?; thường được gọi là **Nguyễn Dữ**- **阮餘**) là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc sống vào khoảng thế kỷ XVI và là tác giả sách _Truyền
**Nguyễn Văn Trình** (chữ Hán: 阮文珵; 1872 - 1949), tự **Lục Quang**, hiệu **Thạch Thất**, **Thốc Sơn**, là một danh sĩ Nho học Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. ## Cuộc
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Lịch sử hành chính Vĩnh Long** được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Vào
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**Vĩnh Phúc** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, nằm ở chính giữa trung tâm hình học trên bản đồ miền Bắc. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,
**Giáo phận Vinh** (tiếng Latin: _Dioecesis Vinhensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại phía Bắc miền Trung Việt Nam. Địa bàn giáo phận Vinh tương ứng với tỉnh Nghệ An, có diện tích
**Phaolô Nguyễn Thái Hợp** (sinh ngày 2 tháng 2 1945) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Hà
**Vĩnh Long** là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Vĩnh Long có diện tích: 6.296 km², xếp thứ 25; dân
**Nguyễn Thị Thanh Tuyền**, thường được biết đến với tên gọi **Nguyễn Phương Hằng** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1971), là một nữ doanh nhân người Việt Nam. Bà là Tổng Giám đốc và