✨Người Achaea

Người Achaea

Achaean (tiếng Hy Lạp: Ἀχαιοί, Akhaioí) là một trong các tên gọi chung cho người Hy Lạp trong sử thi IliadOdyssey của Homer. Các tên khác là Danaans (Δαναοί, được dùng 138 lần trong Iliad) và Argives (Ἀργεῖοι, sử dụng 29 lần trong Iliad). Trong lịch sử, Achaeans là các cư dân của vùng Achaea, nằm ở phần phía bắc của Peloponnese. Các thành bang của vùng này lập nên một liên minh gọi là liên minh Achaean tạo nên ảnh hưởng vào thế kỷ thứ 3 và thứ 2 trước công nguyên.

Mô tả

Achaeans là một trong bốn bộ tộc chính cư trú tại lục địa Hy Lạp cổ (Achaeans, Aeolians, Ionians, Dorians). Achaeans trở thành đại diện cho toàn bộ Hy Lạp trong truyền khẩu qua các tác phẩm Homer, cách dùng trước đó chưa được xác định.

Người "Achaeans tóc dài" trong các tác phẩm của Homer có lẽ là một bộ phận của văn minh Mycenaean thống trị Hy Lạp từ khoảng năm 1600 TCN, có lịch sử là một chủng tộc Hy Lạp cổ (Hellenic) nhập cư vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Có giả thuyết cho rằng người Achaeans chưa từng định cư tại Hy Lạp cho tới cuộc xâm lăng Dorian vào thế kỷ 12 trước công nguyên. Có thể các lãnh đạo người Achaeans trong các tác phẩm của Homer đã nắm quyền lực trong thế giới Mycenaean nhưng bị thay thế sau đó bởi người Dorians. Herodotus nhận định những người Achaeans ở phía bắc Peloponnese như hậu duệ của những người Achaeans ban đầu này.

Các học giả vẫn chưa tìm được sự nhất trí về nguồn gốc của người Achaeans trong lịch sử, và đây vẫn là một vấn đề gây tranh cãi nóng bỏng.

  • Các phỏng đoán trước đây về một chủng tộc, trong đó John A. Scott đã có một bài báo về người Achaean tóc vàng, so với tóc tối của Poseidon "Địa Trung Hải", căn cứ vào các dấu hiệu của Homer, đã bị gạt sang một bên.
  • Giả thuyết đối lập, qua sự tìm hiểu các sử thi Homer, cho rằng Achaeans là tên không gắn liền với một đất nước nào, là một tộc người được tạo ra do truyền thống sử thi, hiện đang có được sự ủng hộ của những người cho rằng "Achaeans" đã được định nghĩa lại vào thế kỷ năm, như là tập hợp những người cùng nói tiếng Hy Lạp Aeolic.
  • Giáo sư Karl Beloch đề xuất rằng không có cuộc xâm lăng Dorian nào cả, mà người Dorians Peloponnesian là người Achaeans.
  • Không đồng tình với Beloch, giáo sư Eduard Meyer cho rằng người Achaeans trên thực tế là người Hy Lạp – tiền Dorians trên lục địa. Kết luận của ông được dựa trên sự nghiên cứu về sự tương đồng giữa ngôn ngữ Achaeans và Arcadians tiền sử.
  • Giáo sư William Prentice không đồng ý với cả hai, cho rằng các chứng cứ khảo cổ cho thấy người Achaeans nhập cư từ phía nam tiểu Á vào Hy Lạp, có lẽ định cư trước tiên ở hạ Thessaly trước năm 2000 TCN.

    Tài liệu Hittite

    Một số văn bản Hittite có nhắc đến một nước nằm về phía tây gọi là Ahhiyawa. Trong những cứ liệu đầu tiên nhất về vùng đất này, một bức thư nói về sự vi phạm hiệp ước của chư hầu của Hittite là Madduwatta, nó được gọi là Ahhiya. Một ví dụ quan trọng khác là bức thư Tawagalawa viết bởi một vị vua Hittite giấu tên vào thời kỳ đế chế (thế kỷ 14 trước công nguyên) gởi vua của Ahhiyawa, coi ông ta là ngang vai và tuyên bố Miletus (Millawanda) là dưới quyền kiểm soát của ông. Nó cũng nhắc đến "giai đoạn Wilusa" với chiến sự ở một phần của Ahhiyawa. Ahhiya(wa) đã được nhận diện là người Achaeans trong cuộc chiến thành Troy và thành phố Wilusa là thành phố Troy huyền thoại (lưu ý sự tương đồng giữa (ϝ)Ίλιον và (w)Ilion, tên vệ thành của Troy). Tuy vậy sự liên hệ chính xác giữa Ahhiyawa và Achaeans ngoài sự tương đồng về cách phát âm vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong giới chuyên gia, kể cả sau sự khám phá ra rằng ngôn ngữ Linear B Mycenaean là một dạng đầu tiên của tiếng Hy Lạp. Các tranh cãi trước đây được tổng kết vào năm 1984 bởi Hans G. Güterbock của Viện Phương Đông.

    Cứ liệu Ai Cập

    Trong suốt năm cai trị thứ năm của Pharaoh Merneptah, một liên minh của những người Liby và những người ở phía bắc dường như đã tấn công vào phía tây của vùng đồng bằng. Trong số các chủng tộc tham gia vào cuộc xâm lăng bị đẩy lùi có Ekwesh hay Eqwesh, được một số người cho rằng chính là Achaeans. Homer cũng nói tới một cuộc tấn công của Achaeans, và Odysseus cũng nói tới cùng sự việc khi nói về vong hồn của Menelaus. Các thần thoại Hy Lạp về sau cũng nói rằng Helen đã ở Ai Cập trong thời gian diễn ra cuộc chiến thành Troy, và sau cuộc chiến người Hy Lạp đã tới Ai Cập để lấy lại nàng. Cũng có các thần thoại kỳ lạ về anh em Aegyptus và Danaus, con của Belus, trong đó Danaus dường như tới từ Ai Cập, mà Marianne Luban cho rằng thuộc vào thời kỳ này.

    Thần thoại Hy Lạp

    Trong thần thoại Hy Lạp, sự phân chia văn hóa giữa những người Hellen (Hy Lạp cổ) được thể hiện như những dòng hậu duệ truyền thuyết giữa các nhóm có quan hệ thân thích, trong số đó có Achaeans. Các chủng tộc của Hy Lạp được đặt tên là Achaeans, Danaans, Kadmeioi, Hellenes, Aeolians, Ionians, Dorians. Kadmos và Danaos xuất phát từ Ai Cập, Pelops từ Phrygia tới định cư tại Hy Lạp và bị đồng hóa thành người Hy Lạp. Hellen, Graicos, Magnis, và Macedon là các con trai của Deucalion và Pyrrha, những người duy nhất sống sót sau cơn Đại Hồng Thủy, các chủng tộc được cho là ban đầu được đặt tên theo con trai cả Graikoi nhưng sau đó được đổi lại tên theo Hellen, người đã khẳng định được là kẻ mạnh nhất. Các con trai của Hellen và mỹ nhân (nymph) Orsiis là Dorus, Xuthos và Aeolus. Các con trai của Xuthos và Kreousa, con gái của Erechthea là Ion và Achaeus.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Liên minh Achaea** (tiếng Hy Lạp: κοινὸν τῶν Ἀχαιῶν) là một liên minh thời kỳ Hy Lạp hóa của các thành bang Hy Lạp ở miền Bắc và miền Trung bán đảo Peloponnese, đặt tên
**Achaean** (tiếng Hy Lạp: Ἀχαιοί, _Akhaioí_) là một trong các tên gọi chung cho người Hy Lạp trong sử thi _Iliad_ và _Odyssey_ của Homer. Các tên khác là **Danaans** (Δαναοί, được dùng 138 lần
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Chiến tranh Cleomenes** (229 BC/228TCN - 222 BC) là cuộc chiến của Sparta và các đồng minh của mình, Elis, chống lại liên minh Achaea và Macedonia. Chiến tranh kết thúc với chiến thắng của
**Trận Sellasia** (tiếng Hy Lạp: Μάχη της Σελλασίας) đã diễn ra trong mùa hè năm 222 trước Công nguyên giữa liên quân của Macedonia và Liên minh Achaea, chỉ huy bởi Antigonos III Doson, và
Những vị trí địa lý liên quan đến cuộc đời của Philopoemen. **Philopoemen** (tiếng Hy Lạp: Φιλοποίμην**,** _Philopoímēn_; 253 TCN, Megalopolis – 183 TCN, Messene) là một danh tướng và chính trị gia tài năng
**Nabis** (tiếng Hy Lạp: Νάβις) là vua của Sparta từ năm 207 TCN đến năm 192 TCN, trong những năm của cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất và thứ hai và cuối cùng là
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Cleomenes III** (tiếng Hy Lạp: Κλεομένης) là vua của Sparta từ 235-222 trước Công nguyên. Ông kế vị ngai vàng của nhà Agiad của Sparta sau khi cha của ông, Leonidas II, mất năm 235
**_Assassin's Creed Odyssey_** là một trò chơi nhập vai hành động do Ubisoft Quebec phát triển và Ubisoft xuất bản. Đây là phần chính thứ mười một trong loạt _Assassin's Creed_ và kế thừa _Assassin's
**Charles I** (đầu 1226/1227 – 7 tháng 1 năm 1285), thường được gọi là **Charles xứ Anjou** hoặc **Charles d'Anjou**, là thành viên của Vương triều Capet và là người sáng lập Nhà Anjou thứ
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Danh sách vua Sparta** kể chi tiết về các nhà lãnh đạo quan trọng của thành bang Sparta tại Hy Lạp ở Peloponnesus. Sparta trông hơi khác với các thành bang Hy Lạp ở chỗ
**Demosthenes** (; ; ; 384 TCN – 12 tháng 10 năm 322 TCN) là một chính khách và nhà hùng biện người Athens thời Hy Lạp cổ đại. Các bài hùng biện của ông đã trở
**Constantius II** (tiếng Latinh: _Flavius ​​Julius Constantius Augustus_; Ngày 07 tháng 8, năm 317-3 Tháng một, năm 361), là Hoàng đế La Mã từ năm 337-361. Ông là người con thứ hai của Constantinus I
**Antipatros** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίπατρος, Antipatros; khoảng 397 TCN – 319 TCN) là một vị tướng Macedonia và là người ủng hộ vua Philipos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Vào năm 320 TCN,
**Pierre**, tức **Pierre II của Courtenay** () (mất năm 1219), là hoàng đế của Đế quốc Latinh thành Constantinopolis từ năm 1216 đến 1217. ## Tiểu sử Pierre II là con trai của Pierre I
thumb|right|_Leda và Thiên nga_, tranh chép thế kỷ 16 theo bức tranh bị mất được vẽ bởi [[Michelangelo]] thumb|Leda, vẽ bởi [[Gustave Moreau]] thumb|right|Leda và Thiên nga, một bức tranh La Mã được phục hồi,
**Geoffroi de Villehardouin** (1160 – khoảng 1212) là một hiệp sĩ và sử gia đã tham gia và ghi chép lại cuộc Thập tự chinh thứ tư. Ông được coi là một trong những nhà
thumb|Bản đồ Thessaly cổ đại, Pherae nằm ở phía đông. thumb|Suối Hyperia ở Pherae, tranh của [[Edward Dodwell.]] **Pherae** (Hy Lạp: Φεραί) là một thành phố và polis (thành bang) nằm ở đông nam của
:_Để biết thêm về những người trùng tên, xem Alcamenes (định hướng)._ **Alcmenes** (Tiếng Hy Lạp: ****) hoặc **Alcamenes**, Alkamenos, là Quốc vương của xứ Sparta, thuộc Vương triều Agis, trị vì từ khoảng năm
**Amadeus VIII** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1383 tại Chambéry – mất ngày 07 tháng 1 năm 1451) là con trai của Amadeus VII, Bá tước của Savoy và Bonne của Berry. Ông mang
_Để tìm hiểu về một trận đánh trước đó, xem bài Trận Chaeronea (338 TCN)_ **Trận Chaeronea** là chiến thắng của quân La Mã do quan Tổng tài Lucius Cornelius Sulla chỉ huy trước vua
nhỏ|Italy vào khoảng năm [[600 TCN]] **Magna Græcia** (tiếng Latinh có nghĩa là "Đại Hy Lạp"; tiếng Hy Lạp: Ἑλλάς Μεγάλη, Megálē Hellas) là tên các khu vực ven biển miền nam Ý trên Vịnh
**Carlo III của Napoli, Károly II của Hungary hay Charles xứ Durazzo** còn được gọi là **_Kẻ cai trị ngắn ngủi_** (1345 – 24 tháng 2 năm 1386), là Vua của Napoli và Vua của
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Trận Pelagonia** đã diễn ra vào tháng 9 năm 1259, giữa Đế chế Nicaea và liên quân của Lãnh địa Bá vương Epirus, Sicilia và Công quốc Achaea. Đây là một sự kiện quyết định
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Quân đội Macedonia nhà Antigonos ** là quân đội của Macedonia trong kỳ khi nó được cai trị bởi triều đại Antigonos từ năm 276 TCN đến 168 TCN. Nó được xem là một trong
**Thân vương xứ Piemonte** (tiếng Ý: _Principe di Piemonte_, tiếng Anh: _Prince of Piedmont_), cũng được biết là **Thân vương xứ Napoli** (tiếng Ý: _Principe di Napoli_) là một tước hiệu truyền thống được trao
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Antigonos III Doson** (chữ Hy Lạp: Αντίγονος Δώσων, 263 TCN-221 TCN) là một vị vua thuộc triều đại Antigonos của Macedonia, triều đại của ông kéo dài từ năm 229 TCN-221 TCN. ## Gia đình
**Đế quốc Nikaia** là đế quốc lớn nhất trong số ba nhà nước kế thừa của đế quốc Đông La Mã, do các quý tộc Đông La Mã bỏ chạy khỏi Constantinopolis bị chiếm đóng
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Mycenae** (Tiếng Hy Lạp Μυκῆναι _Mykēnai_) là một địa điểm khảo cổ tại Hy Lạp, nằm cách Athens khoảng 90 km về phía Tây Nam, ở phía Đông Bắc Peloponnese. Mycenae nằm ở vùng Argolis,
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Odysseus** (; Tiếng Hy Lạp: , _Odusseus_) hay **Ulysses** (; ), phiên âm tiếng Việt là **Uylixơ** hoặc **Ô-đi-xê**, theo thần thoại Hy Lạp ông là vua của xứ Ithaca và là một anh hùng
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Hàng hóa ảo** (hoặc tài sản số, tài sản ảo) là những vật thể phi vật lý và được mua sử dụng trong cộng đồng trực tuyến hoặc trò chơi trực tuyến, bởi những người
**Thánh Anđrê** (tiếng Hy Lạp: **_Ανδρέας_**, **_Andreas_**, tiếng Anh: **_Andrew_**) là một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giêsu. Theo Tân Ước, ông là người em ruột của Thánh Phêrô, cụ thể hơn, ông
nhỏ|Ảnh trên đồng tiền của Philippos V của Macedonia. [[Bảo tàng Anh quốc.]] **Philippos V ** (tiếng Hy Lạp: _Φίλιππος Ε΄_) (238 TCN - 179 TCN) là một vị vua của Macedonia từ năm 221
**Thư thứ nhất gởi cho các tín hữu tại Côrintô** (Cô-rinh-tô) là một sách trong Tân Ước. Thư Côrintô thứ nhất là bức thư mà Sứ đồ Phao-lô và Sosthenes gởi cho các Cơ-đốc nhân
**Trận Magnesia** nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người
**Ẩm thực Hy Lạp** là một nền ẩm thực Địa Trung Hải. Nó có một số đặc điểm trung với ẩm thực truyền thống của Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay người nấu ăn
**Pupienus** (; 178 – 238), Còn gọi là **Pupienus Maximus**, là Hoàng đế La Mã với Balbinus trong ba tháng vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Các nguồn tài liệu vào thời
thumb|upright=1.38|Đoạn mở đầu sử thi _[[Odyssey|Odyse_ của Hómēros]] **Tiếng Hy Lạp cổ đại** là hình thức tiếng Hy Lạp được sử dụng trong thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 3 TCN. Được nói bởi
**Caulonia** () là một đô thị ở tỉnh Reggio Calabria trong vùng Calabria, Ý, có cự ly khoảng 60 km về phía tây nam của Catanzaro và khoảng 70 km về phía đông bắc của Reggio Calabria.