Ngựa hoang Mông Cổ hay còn gọi là ngựa hoang Przewalski Khalkha , takhi; Ak Kaba Tuvan: [] dagy; tiếng Ba Lan: ) hay còn được gọi theo tên khác là ngựa hoang châu Á là những con ngựa hoang phân bố trên những thảo nguyên ở Mông Cổ. Ngựa hoang Mông Cổ là một trong những biểu tượng của hệ động vật Mông Cổ và là tổ tiên của giống ngựa Mông Cổ. Ngựa Przewalski được đặt tên theo nhà thám hiểm người Nga là Nikolai Mikhailovich Przewalski, người đầu tiên phát hiện ra chúng vào khoảng năm 1880 tại khu vực sa mạc Gobi.
Ngựa Przewalski được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng trong thiên nhiên. Từ năm 1960, loài ngựa quý hiếm này đã được liệt vào nhóm động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao của Sách Đỏ. Đây phân loài quý hiếm và nguy cấp của ngựa hoang có nguồn gốc từ các thảo nguyên Trung Á, đặc biệt là Mông Cổ. Từng được xem là tuyệt chủng, ngựa pregoaski đã được tái thả vào tự nhiên Vườn quốc gia Khustain Nuruu, Khu bảo tồn thiên nhiên Takhin Tal và Khu bảo tồn thiên nhiên Khomiin Tal..
Đặc điểm
Một con ngựa hoang Mông Cổ trưởng thành nặng khoảng 250-300 kg hoặc từ 250–350 kg, cao tầm 1m30 và dài 2m. Loài ngựa màu nâu này có chiếc cổ ngắn một cách đặc trưng. Đặc biệt, ngựa Przewalski có 66 nhiễm sắc thể thay vì 64 như những loài ngựa khác. Thức ăn chủ yếu của loài ngựa thảo nguyên này là cỏ và một số loài thực vật đặc biệt. Vào mùa đông, khi cây cỏ không phát triển một số khu bảo tồn sẽ cho chúng ăn cỏ khô, đậu và ngô. Đây cũng là loài ngựa ăn cỏ lâu nhất với thời gian ăn cỏ trong ngày vượt quá 12 tiếng. Ngựa hoang Mông Cổ có thể phát hiện nguy hiểm từ khoảng cách 300 mét và bỏ chạy ngay lập tức, chúng có khả năng chịu rét và chịu nóng rất tốt cũng như tốc độ chạy tương đối tốt lên đến 60 km/giờ. Loài ngựa này có vòng đời tương đối dài, từ 20-25 năm. Khác với các loài ngựa "hoang" khác đã từng được thuần hóa, loài ngựa hoang Mông Cổ chưa bao giờ được thuần hóa, và là loại ngựa hoang thật sự duy nhất còn tồn tại đến nay.
Lịch sử
Khoảng 20.000 năm trước, loài ngựa này sống tại Châu Âu nhưng biến đổi khí hậu khiến chúng rời môi trường sống sang Châu Á. Nguyên nhân của tình trạng này là săn bắn, hoạt động quân sự và áp lực sử dụng đất gia tăng. Ngoài ra, với số lượng ít ỏi ngựa Przewalski trong tự nhiên có thể dẫn đến giao phối cận huyết. Vào thế kỷ 20, loài ngựa này ở trên bờ vực tuyệt chủng do nạn săn bắt. Vào năm 1969, một nhà khoa học Mông Cổ đã nhìn thấy một con ngựa đực loại này ở sa mạc Gobi. Đây là lần cuối cùng con người nhìn thấy giống ngựa này trong tự nhiên. Ngựa hoang Przewalski đã bị cảnh báo tuyệt chủng từ 44 năm trước. Đến năm 2008 có khoảng 500 con ngựa thuộc loài này đang sống trong tự nhiên và 1.500 con sống trong các vườn thú và khu bảo tồn.
Ngày nay, ngựa Przewlski sống sót nhờ vào việc gây giống trong điều kiện nuôi nhốt. Hiện có khoảng 1.800 đến 2.000 con ngựa Przewalsi đang sinh sống tại vùng thảo nguyên Mông Cổ và các khu bảo tồn trên toàn thế giới. Hiện có tổng số 1.800 con ngựa Przewalski sống trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều con sống tại vườn thú Praha.
Khám phá mới
Một khám phá mới vào năm 2018 cho biết ngựa hoang Mông Cổ thực chất là giống ngựa nhà đã bỏ trốn khỏi chủ nhân. Dựa trên một công trình khảo cố tại hai địa điểm ở khu vực Bắc Kazakhstan, gồm Botai và Krasnyi Yar, nơi các nhà khoa học tìm thấy bằng chứng đầu tiên về sự thuần hóa ngựa cách đây hơn 5.000 năm. Các nhà khoa học đã sắp xếp bộ gene của 20 giống ngựa từ Botai dựa trên những chiếc răng và mảnh xương được khai quật và 22 loài ngựa có nguồn gốc cả châu Á và châu Âu. Sau đó, họ so sánh bộ gene của những giống ngựa cổ đại này với bộ gene đã được công bố của 18 loài ngựa cổ đại và 28 giống ngựa hiện đại cho thấy giống ngựa Przewalski có nguồn gốc từ những con ngựa được người dân Botai nuôi dưỡng cách đây khoảng 5.500 năm trước, điều này có nghĩa giống Przewalski không thực sự là giống ngựa hoang thực thụ, đây được đánh giá phát hiện này là một bất ngờ lớn, đồng nghĩa không còn loại ngựa hoang dã nào tồn tại, phát hiện này cũng đặt ra câu hỏi về nguồn gốc thực sự của những loài ngựa nhà hiện nay.
Trong văn hóa
Nhiều người truyền tai nhau rằng ở Mông Cổ có tín ngưỡng thờ ngựa, nguồn gốc của tin đồn này là Takhi trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là tinh thần, (được coi là) đã tuyệt chủng trong tự nhiên từ những năm 1960. Takhi sở hữu khả năng phi cực nhanh, đã có thời các kỵ sỹ Mông Cổ ngày đêm tìm cách khống chế Takhi để mong chú ngựa cái của mình được phối giống với nó, nhưng họ chưa bao giờ làm được điều đó. Người Mông Cổ coi Takhi là bảo vật quốc gia. Việc một số chương trình lên kế hoạch đưa loài ngựa này trở lại các thảo nguyên ở Mông Cổ và sa mạc Gobi có ý nghĩa lớn với đất nước Mông Cổ, nơi ngựa là biểu tượng của tự do và hạnh phúc.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngựa hoang Mông Cổ** hay còn gọi là **ngựa hoang Przewalski** Khalkha , **takhi**; Ak Kaba Tuvan: [] **dagy**; tiếng Ba Lan: ) hay còn được gọi theo tên khác là **ngựa hoang châu Á**
**Hệ động vật ở Mông Cổ** là tập hợp các quần thể động vật đang sinh sống tại Mông Cổ hợp thành hệ động vật ở quốc gia này. Đặc trưng của hệ sinh thái
Văn hoá truyền thống của Mông Cổ là văn hoá thảo nguyên tiếp biến qua nhiều năm lịch sử, do đó, hình tượng con ngựa luôn gắn bó với người dân du mục thảo nguyên.
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang trên đảo Outer **Ngựa hoang đảo** hay **Ngựa Banker** hay **ngựa đảo chắn** là một giống ngựa có nguồn gốc từ ngựa hoang (_Equus ferus caballus_) sống trên các đảo chắn
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang Úc **Ngựa hoang Úc** hay còn gọi là **Brumby** là những con ngựa hoang tự do ở Australia. Mặc dù được tìm thấy ở nhiều nơi trong nước, các con ngựa
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang Chincoteague đang gặm cỏ ở cồn cát trên [[bãi biển, chúng sống trong điều kiện nguồn thức ăn kham khổ]] **Ngựa hoang Chincoteague** hay còn được gọi là **Ngựa hoang Assateague**
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
nhỏ|phải|Cảnh quan thảo nguyên Mông Cổ **Du lịch Mông Cổ** là hoạt động du lịch ở đất nước Mông Cổ, cũng là ngành quan trọng nhất định trong nền kinh tế Mông Cổ. Với những
nhỏ|Trà sữa Mông Cổ nhỏ|Trà sữa Mông Cổ (phải) với [[kê nướng (giữa) để thêm vào trà và kẹo _aaruul_ (trái) làm món ăn kèm.]] **Trà sữa Mông Cổ** hay **Suutei tsai** (,, ) (nghĩa
phải|nhỏ|453x453px|Cảnh quan Mông Cổ **Nông nghiệp ở Mông Cổ** chiếm trên 10% tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Mông Cổ và sử dụng một phần ba lực lượng lao động. Tuy nhiên, địa
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
nhỏ|phải|Một con ngựa có sắc lông vàng mật điển hình nhỏ|phải|Một con ngựa có sắc lông nâu vàng (ngựa qua), đây là một trong những kiểu lông phổ biến ở ngựa **Màu lông ngựa** là
thumb|Một con ngựa Heck ở [[Haselünne, Đức (2004)]] **Ngựa Heck** là một giống ngựa được cho là có ngoại hình khá giống với loài ngựa hoang dã châu Âu (Equus ferus ferus), một loài ngựa
**Ngựa Phần Lan** (tiếng Phần Lan: _Suomenhevonen_, nghĩa là "_con ngựa của Phần Lan_"; biệt danh:_Suokki_, hoặc tiếng Thụy Điển: _Finskt kallblod_, nghĩa đen "_ngựa máu lạnh Phần Lan_"; Trong tiếng Anh, đôi khi nó
**Ngựa Tarpan** (Danh pháp khoa học: _Equus ferus ferus_) hay còn được gọi là **Ngựa hoang Á-Âu** hay ngựa rừng là một phân loài đã tuyệt chủng của loài ngựa hoang. Các cá thể cuối
**Họ Ngựa** (**Equidae**) là một họ động vật có vú bao gồm ngựa, lừa, ngựa vằn, và nhiều loài khác chỉ được biết đến từ hóa thạch. Tất cả các loài còn sinh tồn nằm
nhỏ|phải|Ngựa Konik với biến thể lông trắng bông **Ngựa Konik** (tiếng Ba Lan: _Konik polski_ hay _Konik biłgorajski_) hoặc còn gọi là **ngựa nguyên thủy Ba Lan** là một giống ngựa có tầm vóc nhỏ,
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang Kiger **Ngựa hoang Kiger** là một chủng ngựa Mustang cư trú ở phía đông nam của tiểu bang Oregon. Đây nguyên là những con ngựa hoang dã với những đặc điểm
nhỏ|phải|Những con ngựa cổ xưa được trưng bày trong bảo tàng **Ngựa** là một trong những gia súc được con người thuần hóa sớm nhất. Có những bằng chứng cho thấy, con người đã thuần
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Lừa hoang Trung Á** (_Equus hemionus)_ là một loài lừa lớn thuộc Họ Ngựa, Bộ Guốc lẻ, đặc hữu ở châu Á. Loài này được Pallas mô tả năm 1775. Chúng sinh sống ở các
**Ngựa Manipur** là một giống ngựa được lai tạo và phát triển ở Ấn Độ. Các chuyên gia không đồng ý về nguồn gốc chính xác của nó, mặc dù họ đồng ý rằng nó
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
nhỏ|phải|Một kỵ mã [[Mông Cổ với kỹ thuật truyền thống]] **Môn cưỡi ngựa** (_Equestrianism_) hoặc đơn giản là **cưỡi ngựa** (_Horse riding_) hay còn gọi là **mã thuật** hay "thừa mã" là một môn thể
**Ulaanbaatar** (phiên âm: _U-lan-ba-ta_, , chữ Mông Cổ: , chuyển tự: _Ulaghanbaghator_; phiên âm IPA: , nghĩa là "Anh Hùng Đỏ") là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Mông Cổ. Với
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**_Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang_** là một tiểu thuyết du đãng do tác giả Duyên Anh công bố tại Sài Gòn vào năm 1967. ## Lịch sử Giữa thập niên 1960, trong
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang ở châu Âu nhỏ|phải|Một con bồ câu hoang **Súc vật hoang**, **thú hoang**, **thú hoang đàn** hay **thú đi hoang** là những cá thể động vật sống trong tự nhiên hoang
**Lừa hoang Ấn Độ** hay còn gọi là **Lừa hoang Baluchi** (Danh pháp khoa học: _Equus hemionus khur_) cũng hay gọi là **_ghudkhur_** là một phân loài của loài lừa hoang Trung Á. Chúng là
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Lừa hoang Nubia** (Danh pháp khoa học: _Equus africanus africanus_) là một phân loài của loài lừa hoang châu Phi (Equus africanus) và cũng có thể là tổ tiên của những con lừa nhà vốn
nhỏ|phải|Một con ngựa Lipizzan **Ngựa Lipizzan** hay ngựa **Lipizzaner** (tiếng Czech: Lipicán, tiếng Croatia: Lipicanac, tiếng Hungary: Lipicai, tiếng Ý: Lipizzano, tiếng Slovene: Lipicanec), là một giống ngựa liên quan chặt chẽ với Trường đào
**Tô Ma Lạt Cô** (chữ Hán: 苏麻喇姑, bính âm: _Sumalagu_; ? - 24 tháng 10 năm 1705) là một Thị nữ hầu hạ thân cận của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu. Dù không phải là
**Lừa hoang Syria** (Danh pháp khoa học: _Equus hemionus hemippus_) hay còn biết đến với tên gọi **hemippe** là một phân loài của loài lừa hoang Trung Á (Equus hemionus), phân loài này đã bị
**Lừa rừng Turkmenia** (Danh pháp khoa học: _Equus hemionus kulan_) hay còn gọi là **Lừa hoang Transcaspia** hay còn gọi với tên bản địa là **kulan** là một phân loài của loài lừa hoang Trung
**_Chi Ngựa_** (_Equus_) là một chi động vật có vú trong họ Ngựa, bao gồm ngựa, lừa, và ngựa vằn. Trong Equidae, Equus là chi duy nhất tồn tại được công nhận. Giống như họ