✨Nghĩa vụ quân sự tại Đài Loan

Nghĩa vụ quân sự tại Đài Loan

nhỏ|Một nhóm tân binh người Đài Loan. Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) vẫn luôn duy trì chế độ quân dịch bắt buộc với tất cả nam giới đủ điều kiện trong độ tuổi nhập ngũ kể từ năm 1951. Chính phủ Đài Loan ban đầu dự kiến sẽ chấm dứt chính sách này vào năm 2014, tuy nhiên việc bãi bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc vẫn còn khá nhiều tranh cãi bên trong xã hội Đài Loan, và do đó đến giờ chính phủ vẫn chưa đưa ra được lịch trình chắc chắn về việc bãi bỏ này. Phụ nữ từ các hòn đảo xa của tỉnh Phúc Kiến, nơi gần nhất về mặt địa lý với Trung Quốc đại lục, cũng được yêu cầu phục vụ trong vai trò phòng vệ dân sự, mặc dù yêu cầu này đã được bãi bỏ kể từ khi thiết quân luật được bãi bỏ. Mặc dù phần lớn tất cả các vị trí nhập ngũ trong Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc đã và đang chiếm số lượng lớn những người thuộc diện nhập ngũ, chính phủ có ý định mở rộng dần số lượng binh sĩ tình nguyện với mục tiêu cuối cùng là thành lập một quân đội tình nguyện. Tuy nhiên, ngay cả sau đó sẽ có khóa đào tạo cơ bản bắt buộc cho tất cả nam giới đủ 18 tuổi. Những năm gần đây cũng đã chứng kiến sự gia tăng các lựa chọn nghĩa vụ dành cho những người nhập ngũ, bao gồm nghĩa vụ thay thế với Bộ Nội vụ (MOI), cũng như các lựa chọn nghĩa vụ chuyên biệt cho những quân nhân trong các ngành nghề cụ thể. Quy trình nhập ngũ được đưa ra theo Đạo luật Nghĩa vụ Quân sự của Trung Hoa Dân Quốc dưới sự bảo trợ của Cơ quan Nghĩa vụ Quốc gia của MOI cũng như theo Điều 20 của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc.

Bộ Quốc phòng Trung Hoa Dân Quốc thông báo nếu quân tình nguyện nhập ngũ đạt đủ số lượng, thời hạn phục vụ bắt buộc của những người nhập ngũ sẽ được rút ngắn xuống còn 14 tháng vào năm 2007. Thời hạn sẽ được rút ngắn hơn nữa xuống còn 12 tháng vào năm 2009.

Vào ngày 10 tháng 3 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trần Tiểu Mẫn cho biết vào cuối năm 2014 Đài Loan sẽ có một lực lượng quân sự tình nguyện. Quá trình bãi bỏ nghĩa vụ sẽ bắt đầu vào năm 2010 và đến cuối năm 2014, tất cả lực lượng tình nguyện viên sẽ thay thế các lính nghĩa vụ. Những cá nhân muốn tham gia phải có trình độ học vấn tối thiểu trung học và những người không tình nguyện nhập ngũ sẽ phải hoàn thành bốn tháng huấn luyện quân sự. Vào năm 2012, có thông tin cho rằng từ năm 2013 trở đi, những quân nhân sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 1994 trở đi sẽ chỉ cần huấn luyện quân sự 4 tháng và sẽ không còn phải phục vụ 1 năm nghĩa vụ quân sự nữa, và chính phủ hướng tới thay thế tất cả lính nghĩa vụ phục vụ bằng tình nguyện viên vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, thời gian biểu này đã bị lùi từ năm 2013 đến cuối năm 2016.

Nếu chính sách này không thay đổi, mặc dù Trung Hoa Dân Quốc sẽ có một lực lượng chuyên nghiệp thuần tình nguyện, mọi nam giới sẽ vẫn phải nhập ngũ để được huấn luyện quân sự 4 tháng. Do đó, sau năm 2016, nghĩa vụ quân sự bắt buộc sẽ được thực hiện tại Trung Hoa Dân Quốc.

Đạo luật Nghĩa vụ Quân sự của Trung Hoa Dân Quốc được ban hành lần đầu tiên vào năm 1933 (khi đảo Đài Loan, bao gồm cả Bành Hồ, chưa thuộc Trung Hoa Dân Quốc), với sửa đổi mới nhất vào năm 2011. Đạo luật Thực thi Đạo luật Nghĩa vụ Quân sự lần đầu tiên được ban hành vào năm 1947, khi chính phủ đang chiến đấu với Đảng Cộng sản Trung Quốc trên khắp Trung Quốc.

Từ tháng 2 năm 2013, những người sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 1994 trở đi chỉ cần thực hiện nghĩa vụ quân sự trong 4 tháng. Đến cuối tháng 12 năm 2018, những người lính nghĩa vụ cuối cùng thực hiện nghĩa vụ 1 năm được xuất ngũ. Kể từ năm 2019, hình thức "tự nguyện kết hợp với nghĩa vụ" được áp dụng.

Từ tháng 1 năm 2024, những người sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 trở đi sẽ phải thực hiện nghĩa vụ quân sự thường xuyên trong 1 năm, còn những người sinh từ năm 1994 đến 2004 vẫn sẽ thực hiện nghĩa vụ quân sự thường xuyên trong 4 tháng.

Lịch sử

Ban đầu, Lục quân Trung Hoa Dân Quốc áp dụng chế độ quân dịch bắt buộc dành cho nam giới ở những vùng mà họ kiểm soát nhằm gia sức chiến đấu chống lại quân Nhật. Nghĩa vụ quân sự bắt buộc được đưa vào Đài Loan kể từ năm 1951. Từ năm 1954, phần lớn quân nhân phục vụ 2 năm. Lính hải quân, không quân và lính đặc nhiệm phục vụ 3 năm. Năm 1981, tất cả các quân nhân phục vụ 2 năm. Năm 1991, thời gian nghĩa vụ quân sự được rút xuống còn 22 tháng và có thêm lựa chọn nghĩa vụ quân sự thay thế. Từ năm 2004 đến 2007, thời gian nghĩa vụ quân sự bắt buộc giảm 2 tháng mỗi năm cho đến khi còn 1 năm kể từ năm 2008. Thời gian nghĩa vụ quân sự cho công dân nam sinh từ năm 1994 trở đi được giảm xuống còn 1 năm kể từ năm 2013. Nhóm nhập ngũ cuối cùng theo diện bắt buộc đã xuất ngũ vào tháng 12 năm 2018. Tuy nhiên, các nguồn tin khác nói rằng việc nhập ngũ không chính thức nếu không muốn nói là về mặt kỹ thuật vẫn tồn tại do việc chuyển đổi sang lực lượng toàn tình nguyện đã không thành công trong việc tuyển dụng đủ lính tình nguyện để đáp ứng các nhu cầu phòng thủ.

Điều kiện

Nam công dân Trung Hoa Dân Quốc bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Một người đàn ông 18 tuổi bắt đầu tuổi nghĩa vụ quân sự từ ngày 1 tháng 1 năm sau và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 của năm người đó tròn 36 tuổi, được gọi là tuổi nghĩa vụ của nam giới.

Các lựa chọn phục vụ

Các lựa chọn bắt buộc sau có từ tháng 1 năm 2006:

  • Nghĩa vụ quân sự nhập ngũ (士兵役): 12 tháng tại ngũ tại một trong bốn chi nhánh của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. Nghĩa vụ thay thế (替代役): 12 tháng và 15 ngày làm công việc liên quan đến an ninh công cộng hoặc nghĩa vụ cộng đồng theo Bộ Nội vụ, thường là trong cảnh sát, sở cứu hỏa, phòng khám công, văn phòng chính quyền địa phương, hoặc làm giáo viên ở các vùng nông thôn. Những nơi đóng quân khác nhau chỉ dành cho quân nhân có trình độ chuyên môn liên quan. Nghĩa vụ quốc phòng (國防役): Dành cho quân nhân có bằng cấp cao, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, những người sau khi được tuyển chọn có 3 tháng đào tạo sĩ quan với mục đích là một sĩ quan trong lực lượng dự bị, sau đó là 4 năm làm việc trong chính phủ hoặc cơ sở nghiên cứu học thuật như Academia Sinica hoặc . Theo , công dân nam sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 1994 trở đi sẽ chỉ phải phục vụ 4 tháng ở Nghĩa vụ quân sự nhập ngũ hoặc 6 tháng ở Nghĩa vụ thay thế. 4 tháng nghĩa vụ quân sự nhập ngũ có thể được chia nhỏ thành 2 phiên của chương trình đào tạo kéo dài 2 tháng.

Quá trình

Quá trình nghĩa vụ quân sự gồm 4 bước:

Điều tra đăng ký nghĩa vụ quân sự: Phỏng vấn do các bộ phận nghĩa vụ của các văn phòng chính quyền địa phương tiến hành để xác định nền tảng giáo dục của người công dân cũng như bất kỳ kỹ năng đặc biệt nào (ví dụ: thông thạo ngoại ngữ), thường diễn ra vào sinh nhật lần thứ 19 của nam quốc gia Trung Hoa Dân Quốc hoặc định kỳ khi người đó đăng ký (hoặc thay đổi) nơi cư trú tại các vùng lãnh thổ do Trung Hoa Dân Quốc quản lý khi còn tuổi nhập ngũ nhưng chưa được nhập ngũ. Học tập và các trường hợp hoãn khác có thể được chấp thuận vào thời điểm này nếu công dân đủ điều kiện. Nếu công dân không đủ điều kiện để được hoãn thì sẽ được lên lịch khám sức khỏe. Công dân cũng có thể nộp đơn xin vào nghĩa vụ thay thế hoặc nghĩa vụ quốc phòng tại thời điểm này. Trong trường hợp sau này, công dân sẽ phải thành công tại một hội đồng tuyển chọn sĩ quan để có nơi đóng quân mong muốn, sau đó người đó sẽ tiếp tục trực tiếp đến trường đào tạo sĩ quan sau khi hoàn thành bài kiểm tra sức khỏe.

Kiểm tra sức khỏe: Công dân trải qua một cuộc kiểm tra sức khỏe toàn diện tại một bệnh viện được Bộ Y tế phê duyệt. Thể lực được xếp theo ba cấp độ, A, B và C, với cấp độ A và B được coi là đủ sức khỏe để thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Bốc thăm: Những người trúng tuyển phù hợp với nghĩa vụ quân sự sau đó bốc thăm để xác định xem họ sẽ phục vụ trong lục quân, hải quân, không quân hay thủy quân lục chiến (sĩ quan cảnh sát quân sự được chọn từ những người đăng ký của quân đội). Cơ hội rút thăm cho mỗi dịch vụ là không bằng nhau vì lục quân nói chung là đơn vị có khả năng cao nhất, trung cấp hải quân và không quân và thủy quân lục chiến là ít có khả năng nhất.

Đào tạo cơ bản: Sau khi được chỉ định một nhánh nghĩa vụ, quân nhân sẽ được ấn định một ngày để bắt đầu đào tạo cơ bản, sau đó quân nhân sẽ bắt đầu phục vụ tại ngũ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Một nhóm tân binh người Đài Loan. Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) vẫn luôn duy trì chế độ quân dịch bắt buộc với tất cả nam giới đủ điều kiện trong độ tuổi
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
Khu vực eo biển Đài Loan Sự tranh cãi về **vị thế chính trị Đài Loan** xoay quanh tại việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (_Pescadores_ hoặc _Penghu_), có nên tiếp tục
**Sự kiện Mẫu Đơn Xã** () là một sự kiện quân sự và ngoại giao xảy ra ở Đài Loan vào năm 1874. Nhật Bản đã lấy cớ rằng thủy thủ đoàn trên thuyền vương
**Dân chủ Tiến bộ Đảng** (, tiếng Anh: Democratic Progressive Party) thường được gọi tắt là **Dân Tiến Đảng** (DPP; 民進黨) là một chính đảng tại Đài Loan, và là đảng chiếm ưu thế trong
**Lịch sử Đài Loan** từ ngày 25 tháng 10 của năm 1945 đến nay là một phần của lịch sử Trung Hoa Dân quốc dưới sự cai trị của Trung Hoa Dân quốc. ## Tóm
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại **Đài Loan**, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ
**Đài Loan dưới sự cai trị của Nhật Bản** là khoảng thời gian giữa năm 1895 và năm 1945, trong đó đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ là lãnh thổ phụ thuộc của
nhỏ|[[Tháp Tokyo (2021)]] **Quan hệ Đài Loan – Nhật Bản** có thể phân thành các giai đoạn: Trước năm 1895 khi Đài Loan thuộc quyền thống trị của chính quyền Minh Trịnh và Đại Thanh;
**Đảo Đài Loan** (Chữ Hán chính thể: 臺灣 hoặc 台灣; Chữ Hán giản thể: 台湾; Bính âm: _Táiwān_; Wade-Giles: _T'ai-wan_; tiếng Đài Loan: _Tâi-oân_) là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Văn hoá Đài Loan** là sự pha trộn giữa nhà Khổng giáo và các nền văn hoá thổ dân Đài Loan, thường được hiểu theo nghĩa truyền thống và hiện đại. Kinh nghiệm chính trị
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.
**Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan** còn được gọi là **Quốc Dân Đảng dời sang Đài Loan** hay **Cuộc rút lui vĩ đại **đề cập đến cuộc di cư của chính phủ Trung
**Phong trào độc lập Đài Loan** hay **Đài độc** (**臺獨** hoặc **台獨**) là một phong trào chính trị theo đuổi sự độc lập chính thức cho Đài Loan. Các mục tiêu của việc độc lập
**Quan hệ Đài Loan – Hoa Kỳ** là chỉ quan hệ song phương giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc. Trước năm 1979, hai bên có quan hệ ngoại giao chính
Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đã đến thăm Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, vào ngày 2 tháng 8 năm 2022. Bà được hộ tống bởi một phái
[[Tập tin:Two Chinas.svg|thumb|293x293px|Quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới và Đài Loan.
]] **Trung Hoa Dân Quốc (THDQ)**, thường được gọi là **Đài Loan**, hiện tại có quan hệ ngoại
**Đài Loan dưới sự cai trị của nhà Thanh** đề cập đến sự cai trị của nhà Thanh đối với Formosa (khu vực ven biển của Đài Loan ngày nay) từ năm 1683 đến năm
**Kinh tế Đài Loan** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với kỹ nghệ cùng mức độ công nghiệp hóa cao. Năm 2019, GDP danh nghĩa của hòn đảo
**Đài Loan** có dãy núi Trung ương chạy dọc theo chiều bắc-nam ở phía đông của hòn đảo. Do vậy, các dòng sông trên đảo thường có hai hướng chính là chảy về phía đông
**Luật Quan hệ Đài Loan** là một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ quy định về quan hệ không chính thức giữa Hoa Kỳ và Đài Loan sau khi Hoa Kỳ thừa nhận nhà
**Nhà đương cục Đài Loan** () còn gọi là **Nhà chức trách Đài Loan** (台湾有关方面), **Nhà cầm quyền Đài Loan** (台灣方面) gọi tắt là **Đài đương cục** (台当局), nghĩa là **Nhà đương cục Đài Loan,
Vào năm 2005, dân số Đài Loan là 22,9 triệu người. Chừng 98% dân cư là người Hán. Trong số đó, khoảng 84% là con cháu của những người Hán di dân tới đảo Đài
**Khủng bố Trắng ở Đài Loan** () là việc đàn áp các nhà bất đồng ý kiến tiếp theo sau sự kiện ngày 28 tháng 2 của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở tại
là danh xưng lực lượng quân sự hợp thành của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi nắm được quyền lực kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện
nhỏ|Thổ dân Đài Loan **Thổ dân Đài Loan** hay **Dân tộc thiểu số Đài Loan** () hoặc **người Cao Sơn** là thuật ngữ mà thường dùng để chỉ những người bản địa của Đài Loan.
**Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc** (, _Trú Đài Bắc Việt Nam Kinh tế Văn hóa Biện sự xứ_) là một cơ quan đại diện ngoại giao không chính
**Ga Bệnh viện Đại học quốc lập Đài Loan** (, ) là một ga tàu điện ngầm (đường sắt đô thị) thuộc tuyến Đạm Thủy-Tín Nghĩa (R, màu đỏ) của hệ thống đường sắt đô
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Đài Bắc 101** () – hay **Taipei 101**, từng được gọi là **Trung tâm Tài chính Thế giới Đài Bắc** – là một tòa nhà cao tầng có tính dấu mốc tại quận Tín Nghĩa, Đài Bắc,
**Làn sóng Đài Loan** hay **Đài lưu** (tiếng Nhật: 台流), hay còn gọi đầy đủ là **làn sóng văn hóa Đài Loan**, là tên gọi bắt nguồn từ Nhật Bản để chỉ sự lan toả
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
**Lịch sử quân sự Việt Nam** hay **Quân sử Việt Nam** là quá trình hình thành và phát triển các hoạt động quân sự trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, bắt đầu
**Công ty cấp nước Đài Loan** (tiếng Anh: Taiwan Water Corporation TWC; tiếng Trung phồn thể 台灣自來水公司, bính âm: Táiwān Zìláishuǐ Gōngsī) là một công ty dịch vụ nhà nước cung cấp nước cho đảo
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Hôn nhân cùng giới ở Đài Loan** trở thành hợp pháp vào ngày 24 tháng 5 năm 2019. Điều này khiến Đài Loan trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á thực hiện hợp
thumb|Biểu ngữ 「Cuộc xâm lược [[quần đảo Senkaku của Trung Quốc! Hành động đoàn kết dân tộc quốc gia」 tại Shibuya ngày 2 tháng 10 năm 2010.]] **Biểu tình phản đối quần đảo Senkaku năm
**Đặng Lệ Quân** (; tiếng Anh: **Teresa Teng**) (29 tháng 1 năm 1953 – 8 tháng 5 năm 1995) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và nhà từ thiện người Đài Loan. Được
**Bộ đội Phú Đài** là danh xưng phổ biến dùng để chỉ các đơn vị tàn quân của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) năm 1949 và được
Vào ngày 2 tháng 4 năm 2021, lúc 09:28 giờ địa phương, một đoàn tàu _Taroko Express_ do Cục quản lý Đường sắt Đài Loan vận hành bị trật bánh tại lối vào phía bắc của
**Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan** (tiếng Trung: 台湾民主自治同盟, tức _Đài Loan dân chủ tự trị đồng minh_) gọi tắt là **Đài Minh** là một trong 8 đảng phái dân chủ của Cộng
nhỏ|[[Tuyên bố của Dunmore tuyên bố thiết quân luật ở Thuộc địa Virginia vào ngày 27 tháng 5 năm 1775, vài tháng sau khi bắt đầu Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ]] **Thiết quân luật**
**Sự kiện Tết Mậu Thân** (sách báo Việt Nam thường gọi là **_Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968_**) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành
**Lại Quán Lâm** (, ; tiếng Anh: **Edward**, lúc nhỏ dùng tên **Eddie**) là một nam ca sĩ kiêm diễn viên người Đài Loan hiện đang hoạt động tại Trung Quốc. Quán Lâm được biết
**Quần đảo Mã Tổ** (; phiên âm tiếng Phúc Châu: Mā-cū liĕk-dō̤), gọi chính thức là **huyện Liên Giang** (; phiên âm tiếng Phúc Châu: Lièng-gŏng-gâing), là một quần đảo gồm 36 đảo trên biển