✨Maghreb

Maghreb

Liên đoàn Maghreb Ả rập Vùng Maghreb (tiếng Ả Rập: المغرب العربي al-Maġrib al-ʿArabī; có nghĩa là "nơi mặt trời lặn" hay "phương tây") thường được dùng để đề cập đến các quốc gia Mauritania, Maroc, Algérie, Tunisia và Libya. Trong tiếng Ả Rập cổ, từ Maghreb đề cập đến khu vực bao gồm dãy Atlas và đồng bằng ven Địa Trung Hải của các quốc gia trên. Về mặt lịch sử đôi khi người ta cũng tính Tây Ban Nha thuộc vùng này, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước này bị người Hồi giáo xâm lăng và thống trị.

Ngăn cách một phần với phần còn lại của lục địa châu Phi bởi dãy núi Atlas và sa mạc Sahara, vùng Maghreb từ lâu đã là một vùng biệt lập điển hình về thời tiết, đất đai, con người, kinh tế và lịch sử với những ảnh hưởng từ Địa Trung Hải lớn hơn so với phần còn lại của châu Phi. Tuy nhiên, vùng này cũng có những liên hệ với vùng châu Phi hạ Sahara về con người, thương mại và các ảnh hưởng tôn giáo. Vùng này từng được thống nhất thành một thực thể chính trị duy nhất trong những năm đầu tiên khi người Ả Rập thống trị Bắc Phi (vào đầu thế kỷ 8) và lần thứ hai dưới sự cai trị của Almohads (1159 – 1229).

Liên đoàn Maghreb Ả Rập được thành lập vào năm 1989 để phát triển hợp tác và liên kết giữa các quốc gia Ả rập ở Bắc Phi. Những thành viên của liên đoàn này bao gồm Maroc, Algérie, Tunisia, Libya và gần đây là Mauritanie. Là ý tưởng ban đầu của Muammar al-Gaddafi để thành lập một siêu liên bang Ả Rập, tổ chức này được kỳ vọng sẽ dần xây dựng được một thị trường chung cho khu vực Bắc Phi. Bất chấp những bất ổn về kinh tế và chính trị trong vùng, đặc biệt là tại Algérie, tổ chức này đã đạt được nhiều tiến bộ với các mục tiêu chung.

Các vùng đất

Maghreb thời hiện đại

  • Algérie
  • Ceuta (phần đất thuộc Tây Ban Nha)
  • Libya
  • Maroc
  • Melilla (phần đất thuộc Tây Ban Nha)
  • Mauritanie
  • Tunisia

Maghreb thời Trung cổ

  • Ifriqiya
  • Djerid
  • Sous
  • Zab
  • Hodna
  • Rif
  • Maghreb al-Awsat (Trung Maghreb)
  • Maroc (Maghreb al-Aqsa)
  • Tamesna
  • Tripolitania

Con người

Cảnh đêm ở [[Tunis, thủ đô của Tunisia]]

Phần lớn cư dân sống ở Maghreb hiện giờ tự coi mình là người Ả Rập, dù có sắc tộc và ngôn ngữ nào, nhưng cũng tồn tại những nhóm người phi Ả Rập lớn trong vùng. Nhóm người phi Ả Rập đáng chú ý nhất trong vùng, đặc biệt là ở Maroc và Algérie, là những người Berber. Những ảnh hưởng từ các nền văn minh khác cũng có tác động lớn ở Maghreb.

Ở các đô thị ven biển phía bắc, những làn sóng dân nhập cư từ châu Âu đã ảnh hưởng lớn đến dân cư ở đó, đặc biệt là những người morico và người muladi, những người theo Hồi giáo ở Tây Ban Nha phải chạy khỏi châu Âu, cùng những người Hồi giáo Ả Rập và Berber sau cuộc thanh trừng của Thiên chúa giáo. Những sắc dân châu Âu khác bao gồm Pháp, Ý và những tù binh chiến tranh của một số chủng tộc khác. Ngoài ra, còn có người Thổ Nhĩ Kỳ di cư đến đây từ thời Đế chế Ottoman. Một nhóm lớn cư dân có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục sinh sống ở Tunisia và Algérie đến tận ngày nay.

Về mặt lịch sử, vùng Maghreb cũng từng là nơi trú ngụ của những cộng đồng Do Thái lớn, bao gồm người Berber theo Do Thái giáo đã chống lại việc cải đạo của đa số người Berber theo Hồi giáo vào thế kỷ 7. Sau đó, những người Do Thái Sephardi từ Tây Ban Nha chốn chạy cuộc thanh trừng của Thiên chúa giáo, cũng có mặt ở vùng này, đặc biệt là tại các trung tâm thương mại lớn, góp phần vào sự đa dạng văn hóa và sắc tộc của vùng. Những ảnh hưởng từ vùng hạ Sahara xuất hiện ở vùng này do các hoạt động thương mại xuyên sa mạc Sahara, mang đến đây nô lệ và các thương gia từ vùng Sahel, vùng phía nam của Sahara.

Phía nam vùng Maghreb, gần sa mạc Sahara, còn có những sắc dân da đen, đôi khi được gọi là người Haratine. Nhóm người này có lẽ có tổ tiên là những người da đen đã cư ngụ ở Sahara vào thời kỳ sa mạc này vẫn còn chưa khô cằn như hiện nay, rồi sau đó đã di cư về phía Bắc. Ở Algérie có một thiểu số người châu Âu lớn nhất vùng. Họ di cư đến đây dưới thời thực dân Pháp. Sau khi Algérie giành độc lập, phần lớn người Pháp đã ra đi, nhưng vẫn có những người ở lại và hiện tại Pháp giữ một mối quan hệ rất gần gũi với các quốc gia vùng Maghreb.

Vùng Maghreb có chung một truyền thống văn hóa ẩm thực. Cư dân vùng này chủ yếu sử dụng các loại thức ăn từ hạt couscous như món chính trong bữa ăn của họ trong khi ở các nước Ả Rập phương Đông, gạo được sử dụng làm món chính.

Tôn giáo

Lịch sử tôn giáo vùng Maghreb bắt đầu với sự xâm nhập từ bên ngoài và sự thành lập những thuộc địa ven biển trước tiên bởi người Phoenicia, người Hy Lạp và sau đó là cuộc chinh phục và thuộc địa hóa lớn của người La Mã. Vào khoảng thế kỷ 2, khu vực này trở thành một trung tâm của người Thiên chúa giáo nói tiếng Latin khi những kẻ thực dân La Mã và các cư dân La Mã di cư đến đây tìm cách cải đạo cho người dân trong vùng sang đạo Thiên chúa. Vùng này đã sản sinh ra những nhân vật lớn như nhà văn của nhà thờ Thiên chúa giáo Tertullian (155 - 202), những Thánh tử vì đạo hoặc những nhân vật lịch sử của Thiên chúa giáo như Thánh Cyprian xứ Carthage, Righteous Monica, con trai bà, nhà triết học Augustine xứ Hippo và Thánh Julia xứ Carthage.

Ưu thế của đạo Thiên chúa kết thúc sau cuộc xâm lăng thứ nhất của người Ả Rập, mang Hồi giáo đến vùng này vào năm 647. Đế chế Carthage sụp đổ vào năm 698 và phần còn lại của vùng cũng rơi vào sự cai trị của người Hồi giáo vài thập kỷ sau đó. Quá trình Hồi giáo hóa diễn ra từ từ. Những lá thư của người Thiên chúa giáo sống trong vùng gửi về Roma cho thấy đến thế kỷ 9, Thiên chúa giáo vẫn còn hoạt động khá tích cực. Các giáo phận tiếp tục hoạt động với những mối liên hệ với Roma cho tới cuối thế kỷ đó. Vào thời Giáo hoàng Benedictus VII (974 – 983), một linh mục ở vùng này được gửi đến Roma và đã được Giáo hoàng phong là Tổng giám mục xứ Carthage. Tuy nhiên, những bằng chứng về đạo Thiên chúa giáo trong vùng dần biến mất vào thế kỷ 10.

Hồi giáo

Từ thế kỷ 7 trở đi, gần như toàn bộ cư dân trong vùng này đều theo Hồi giáo, dù vẫn còn tồn tại những cộng đồng nhỏ người Do Thái và người Thiên chúa giáo. Hầu hết người Hồi giáo ở đây theo nhánh Sunni, nhưng cũng có những nhóm nhỏ người Hồi giáo theo nhánh Ibadi. Truyền thống tôn kính các thầy tu Hồi giáo và các lăng mộ của những vị thánh rất phổ biến trong các vùng mà cư dân Berber sinh sống. Tuy nhiên, truyền thống này đã mai một dần, đặc biệt là trong thế kỷ 20. Một mạng lưới các thầy tu Hồi giáo vẫn tiếp tục đi giảng giáo lý của đạo Hồi ở các vùng nông thôn.

Lịch sử

Từ cuối Kỷ băng hà, khi sa mạc Sahara dần trở nên khô cạn, mối liên hệ giữa Maghreb và châu Phi hạ Sahara bị hạn chế dần. Cuộc xâm lăng của người Ả Rập và sự thống trị của đạo Hồi đã góp phần phát triển trở lại thương mại xuyên Sahara, vốn bị hạn chế trước đó vì chi phí cao và độ rủi ro lớn. Con đường thương mại này rất quan trọng và mang đến rất nhiều giá trị cho vùng. Những hàng hóa phổ biến nhất là muối, vàng, ngà voi và nô lệ, vốn sẵn có ở vùng Sahel.

Nhiều cảng biển dọc theo bờ biển Maghreb do người Phoenicia chiếm giữ. Sau sự sụp đổ của Đế chế Carthage, nhiều cảng biển chuyển sang quyền cai trị của Đế chế La Mã, đế chế kiểm soát toàn bộ vùng Maghreb ở phía bắc dãy Atlas, chỉ trừ vài phần hiểm trở như Rif ở Maroc.

Người Ả Rập đến Maghreb vào đầu thời Umayyad, nhưng sự kiểm soát lúc đầu của người Ả Rập khá lỏng lẻo, nhiều dòng Hồi giáo khác như dòng Ibadi và dòng Shia, những dòng chính của người Berber khi đó, nhanh chóng thoát ra khỏi sự kiểm soát của Caliphal nhân danh cách giải thích đạo Hồi của riêng họ. Ngôn ngữ Ả Rập chỉ trở nên phổ biến sau cuộc xâm lược của Banu Hilal vào thế kỷ 12. Trong suốt giai đoạn này, có những lúc toàn vùng Maghreb đã được thống nhất lại thành một thực thể chính trị duy nhất (dưới thời Almohads và một giai đoạn ngắn dưới thời Hafsids). Nhưng nhìn chung, toàn vùng được chia thành ba tỉnh thuộc Đế chế Ả Rập mà nay tương ứng với Maroc, miền tây Algérie, miền đông Algérie và Tunisia.

Sau thời Trung cổ, vùng phía đông Maroc dần bị kiểm soát bởi Đế chế Ottoman. Sau thế kỷ 19, vùng này trở thành thuộc địa của Pháp, Tây Ban Nha và sau đó là Ý.

Ngày nay, có gần 2,5 triệu người xuất thân từ Maghreb, đặc biệt là từ Algérie đang sống ở Pháp, cũng như có rất nhiều người Pháp có nguồn gốc Maghreb.

Những thương gia Maghreb người Do Thái

Vào thế kỷ 10, do môi trường chính trị và xã hội ở Baghdad ngày càng trở nên thù địch với người Do Thái, nhiều thương gia Do Thái đã rời Ba Tư để đến Maghreb, đặc biệt là ở Tunisia. Trong hai ba thế kỷ sau đó, một nhóm thương nhân đi lại ngang dọc Địa Trung Hải được hình thành, chủ yếu là bắt nguồn từ những người Do Thái giáo này.

Thống kê kinh tế

Xếp theo GDP (PPP)

|

|

|}

|

|

|}

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Liên đoàn Maghreb Ả rập Vùng **Maghreb** (tiếng Ả Rập: المغرب العربي _al-Maġrib al-ʿArabī_; có nghĩa là "nơi mặt trời lặn" hay "phương tây") thường được dùng để đề cập đến các quốc gia Mauritania,
Liên minh Ả Rập Maghreb trên bản đồ châu Phi. **Liên minh Ả Rập Maghreb** (tiếng Ả Rập: اتحاد المغرب ; chuyển tự Latinh: _Ittihad al-Maghrib al-Araby_) là một hiệp định thương mại nhằm thúc
**Tiếng Ả Rập Maghreb** (**tiếng Ả Rạp Tây**; trái ngược với tiếng Ả Rập Đông hoặc tiếng Ả Rập Mashriq) là một cụm phương ngữ tiếng Ả Rập được nói ở vùng Maghreb: Maroc, Algérie,
**Maroc**, quốc hiệu là **Vương quốc Maroc**, là một quốc gia có chủ quyền tại Bắc Phi, giáp Algérie về phía đông, giáp Địa Trung Hải và Đại Tây Dương về phía Bắc và Đông,
nhỏ|Một người Tunisia đến từ thị trấn [[Téboursouk nói tiếng Ả Rập Tunisia.]] **Tiếng Ả Rập Tunisia** hay đơn giản là **tiếng Tunisia**, là một nhóm phương ngữ tiếng Ả Rập Maghreb được nói ở
**Algérie** (, phiên âm: "An-giê-ri"; tiếng Ả Rập: الجزائر, , tiếng Berber (Tamazight): _Lz̦ayer_ , ), tên chính thức **Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie**, là một nước tại Bắc Phi, và là nước
**Tiếng Ả Rập Algeria** (được gọi là Darja hoặc Dziria ở Algeria) là một phương ngữ tiếng Ả Rập được nói ở miền bắc Algeria. Nó thuộc cụm phương ngữ Ả Rập Maghreb và một
**Tiếng Ả Rập Hassānīya** ( __; còn được gọi là _Hassaniyya_, _Klem El Bithan_, _Hasanya_, _Hassani_, _HassLocation_) là một phương ngữ tiếng Ả Rập Maghreb được nói bởi Arab-Berber và người Sahrawi Mauritania. Nó được
nhỏ|Cuộc phỏng vấn với [[Salma Rachid, một ca sĩ người Ma rốc trong khi cô nói tiếng Ả Rập Ma-rốc.]] nhỏ|Một người đang nói tiếng Ả Rập Maroc **Tiếng Ả Rập Maroc** (, ), còn
**Cộng hòa Ả Rập Sahrawi Dân chủ**, cũng được gọi là **Cộng hòa Sahrawi** và **Tây Sahara**, là một quốc gia được công nhận hạn chế ở phía tây Maghreb. Quốc gia này tuyên bố
**Tây Sahara** ( __, , tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp: ) là một vùng lãnh thổ tranh chấp thuộc vùng Maghreb của Bắc Phi, ven Đại Tây Dương và giáp với Ma Rốc,
**Dãy núi Atlas** (tiếng Berber: idurar n Watlas, tiếng Ả Rập: جبال الأطلس) là một dãy núi thuộc vùng Maghreb, tây bắc châu Phi. Với độ dài khoảng 2.500 km qua Maroc, Algérie, và Tunisia, dãy
phải|Tộc kỳ Imazighen, biểu tượng của người Berber
**Akenyal Amaziɣ**
ⴰⴾⴻⵏⵢⴰⵍ ⴰⵎⴰⵣⵉ **_Berber_** là người bản địa Bắc Phi sống ở phía tây thung lũng sông Nile. Họ sống phân bố từ Đại Tây Dương với ốc
**Ngữ tộc Berber** hay **ngữ tộc Amazigh** (tên Berber: ) **_Tamaziɣt_** /tæmæˈzɪɣt/ hay **_Tamazight_** /θæmæˈzɪɣθ/ là một nhóm gồm các ngôn ngữ và phương ngữ liên quan chặt chẽ đến nhau, nguồn gốc tại Bắc
**Các phương ngữ tiếng** **Ả Rập** ( __) là một cụm từ chỉ đến các phương ngữ tiếng Ả Rập, do "sự can nhiễu" ngôn ngữ giữa tiếng Ả Rập và các ngôn ngữ địa
Khu vực Bắc Phi **Bắc Phi** là khu vực cực Bắc của lục địa châu Phi, ngăn cách với khu vực châu Phi hạ Sahara bởi sa mạc Sahara. Về mặt địa lý, định nghĩa
**Lịch sử Algérie** diễn ra ở đồng bằng ven biển màu mỡ của Bắc Phi, mà thường được gọi là Maghreb (hoặc Maghreb). Bắc Phi từng là một khu vực quá cảnh đối với những
**Liên đoàn Ả Rập** ( **'), tên chính thức là **Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập** ( **'), là một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập nằm tại và xung
**Nhà Abbas** ( / ALA-LC: _al-Khilāfah al-‘Abbāsīyyah_) trong tiếng Việt còn được gọi là nước **Đại Thực** theo cách gọi của người Trung Quốc (大食) là triều đại Hồi giáo (khalifah) thứ ba của người
**Thế giới Ả Rập** ( **'; chính thức: **quê hương Ả Rập**, **'), còn gọi là **dân tộc Ả Rập** ( **') hoặc **các quốc gia Ả Rập''', hiện gồm có 22 quốc gia nói
**Sarra Toubi** là một vận động viên người Tunisia đã nghỉ hưu, người đã nhìn thấy thành công ở cấp độ lục địa. Tại Giải vô địch điền kinh Ả Rập, cô đã giành được
**Ghita El Khayat,** (altern. Translit. **Rita),** (sinh năm 1944 tại Rabat, Morocco) là bác sĩ tâm thần Ma-rốc, nhà phân tâm học anthro, nhà văn, và là một nhà nhân chủng học. Tại Rabat, bà
**Mébarka Hadj Abdellah** là một vận động viên người Algérie đã nghỉ hưu, đã nhìn thấy thành công ở cấp độ lục địa. Tại Giải vô địch Maghreb năm 1981, cô đã giành được đồng
**Sophie Bessis** (, 1947) là một nhà sử học, nhà báo, nhà nghiên cứu và tác giả nữ quyền người Pháp gốc Tunisia. Cô đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp, tiếng Tây Ban
**Sân vận động 5 tháng 7 năm 1962** (, ), (tên gọi ngày 5 tháng 7 năm 1962, ngày Algérie tuyên bố độc lập), là một sân vận động bóng đá và điền kinh
**Saskia Bricmont** (sinh ngày 16 tháng 3 năm 1985) là một chính trị gia người Bỉ thuộc đảng Ecolo từ năm 2007. Bà được bầu làm đại biểu Nghị viện châu Âu vào năm 2019.
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Maroc**, có biệt danh "Những chú sư tử Atlas", là đội tuyển đại diện cho Maroc tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế. Đội được quản lý
**Lịch Berber** là loại niên lịch được người Berber ở Bắc Phi sử dụng. Lịch này còn được biết đến trong tiếng Ả Rập dưới tên gọi فلاحي fellāḥī "nông nghiệp" hay عجمي ajamī "phi
**Người Do Thái** ( ISO 259-3 , phát âm ) là sắc tộc tôn giáo và là dân tộc có nguồn gốc từ người Israel cổ đại, còn gọi là người Hebrew, trong lịch sử
**Salima Ghezali** sinh 1958 ở thành phố Bouira thuộc vùng Kabylie (bắc Algérie), là một nhà báo , nhà văn người Algérie và là một chiến sĩ đấu tranh cho nữ quyền, nhân quyền và
nhỏ|_Sylvia melanocephala_ thumb|_Cuculus canorus canorus_ + _Sylvia melanocephala_ **_Sylvia melanocephala_** là một loài chim trong họ Sylviidae. ## Phân bố và môi trường sống Loài này sinh sản ở khu vực cực nam châu Âu
Một vụ đánh bom liều chết đã xảy ra vào ngày 21 tháng 5 năm 2012 nhằm vào binh lính tập luyện cho buổi diễu binh thường niên chào mừng Ngày Thống nhất tại Sana'a,
**Công chúa tóc xù** (tên gốc tiếng Anh: **_Brave_**) (còn có tên gọi khác là **Nàng công chúa can đảm**) là phim hoạt hình máy tính thể loại tưởng tượng của Mỹ phát hành năm
**Abdelhamid Abou Zeid** (1965 - 2013), tên thật là Mohamed Ghadir, là một công dân Algérie và là một trong ba chỉ huy cao cấp của al-Qaida tại Maghreb Hồi Giáo. Ông là đối thủ
**Nhà Almoravid** (; , _Al-Murābiṭūn_) là một triều đại Berber Hồi giáo lấy Maroc làm trung tâm. Nó đã thiết lập một đế quốc vào thế kỷ 11 trải dài qua phía tây Maghreb và
Vào ngày 2 tháng 3 năm 2018, có ít nhất tám chiến binh vũ trang đầy vũ trang đã tấn công các địa điểm quan trọng quanh Ouagadougou, thủ đô của Burkina Faso. Các mục
**Lực lượng Vũ trang Nhân dân Quốc gia Algérie** (Armée nationale populaire) là lực lượng quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Algérie, và là kế tục viên của Lực lượng Giải phóng
**Rachida Ferdjaoui** (sinh năm 1965) là một vận động viên chạy nước rút và vượt rào người Algérie đã nghỉ hưu, người đã nhìn thấy thành công ở cấp độ lục địa. Tại Giải vô
phải|nhỏ|200x200px| Các quốc gia châu Phi tiền thuộc địa từ các khoảng thời gian khác nhau phải|nhỏ|267x267px| Obelisk tại [[Đền Luxor|đền thờ Luxor, Ai Cập. khoảng 1200 TCN ]] phải|nhỏ|276x276px| Hiệp sĩ Baguirmi trong bộ
**Noura Borsali** (tiếng Ả Rập: نورة البورصالي) (19 tháng 8 năm 1953 – 14 tháng 11 năm 2017) là một nhà Tunisia học, nhà báo, nhà văn, nhà phê bình văn học và phê bình
**Nước thịt** là một loại nước sốt thường được làm từ nước cốt thịt chảy ra tự nhiên trong quá trình nấu nướng và thường được làm đặc với bột mì hoặc tinh bột ngô
nhỏ|Sihem Bensedrine **Sihem Bensedrine** (tiếng Ả Rập: سهام بن سدرين), sinh ngày 28 tháng 10 năm 1950, là một nhà báo người Tunisia và là một nhà hoạt động nhân quyền. Năm 2005, cô được
Ngày 13 tháng 3 năm 2016, các tay súng đã nổ súng tại một khu nghỉ dưỡng bờ biển ở Grand-Bassam, Ivory Coast, giết chết ít nhất 16 người. ## Vụ tấn công Sáu kẻ
**Medina của Sousse** là một khu phố cổ Medina ở Sousse, thuộc tỉnh Sousse, Tunisia. Nó được công nhận là Di sản thế giới từ năm 1988 như là một ví dụ điển hình về
[[Tập tin:Francophone_Africa.svg|nhỏ|308x308px| |thế=]] nhỏ|280x280px|[[Graffiti trên đại lộ Habib-Bourguiba ở Tunis vào tháng 3/2012.]] **Tiếng Pháp tại châu Phi** là tập hợp tất cả các phương ngữ, giọng nói và từ mượn, cấu trúc và tạo
**M'zab** hoặc **Mzab**, (Mozabite _Aghlan_, ) là một khu vực tự nhiên ở phía bắc sa mạc Sahara, thuộc tỉnh Ghardaïa, Algeria. Nó nằm cách về phía nam của thủ đô Algiers và ước tính
**Chiến dịch Tự do Bền vững** (**Operation Enduring Freedom,** **OEF**) là tên chính thức được chính phủ Hoa Kỳ sử dụng cho Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Vào ngày 7 tháng 10 năm
**Xốt tartare** (_tiếng Pháp: sauce tartare_) là một loại xốt nguội làm từ mayonnaise trộn với rau thơm và rau củ ngâm giấm thái nhỏ. Xốt có thể được gia thêm dầu ô-liu, nước cốt
nhỏ|Logo **113** là một nhóm nhạc hip hop của Pháp bao gồm các thành viên có tổ tiên là người gốc Phi và Caribe, có nguồn gốc từ Bắc và Tây Phi và đảo Guadeloupe,
**Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Khu vực** (tiếng Anh: Center for International and Regional Studies, viết tắt là **CIRS**) là một trung tâm nghiên cứu về các vấn đề quốc tế và khu