Lưu Nhân Cung (, ? - 914) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông kiểm soát Lư Long (盧龍, trị sở nay thuộc Bắc Kinh) từ năm 895 đến năm 907. Thoạt đầu, ông là một viên quan tại Lư Long, song sau đó đã chạy đến chỗ Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng. Sau khi Lý Khắc Dung công chiếm Lư Long thì đã để ông ở lại cai quản, song Lưu Nhân Cung sau đó đã quay sang chống Lý Khắc Dụng và trở thành một quân phiệt độc lập, mặc dù ông và Lý Khắc Dụng từng vài lần hiệp đồng hành động. Lãnh địa của Lưu Nhân Cung trở thành nền tảng cho nước Yên do con ông là Lưu Thủ Quang lập ra. Năm 913, Tấn vương Lý Tồn Úc đã chinh phục Yên và bắt giữ cả Lưu Thủ Quang và Lưu Nhân Cung, sang năm sau thì xử tử cả hai người.
Thân thế
Gia đình ông có nguồn gốc từ Lạc Thọ (樂壽, nay thuộc Thương Châu, Hà Bắc)- không thuộc về Lư Long quân. Lưu Nhân Cung theo cha là Lưu Thịnh (劉晟) đến Lư Long do Lưu Thịnh là Tân Hưng trấn tướng của tiết độ sứ Lý Khả Cử. Lưu Nhân Cung được mô tả là từ nhỏ đã nhiều mưu kế, nhiều lần thể hiện tài trí trong quân đội. Khi Lý Khả Cử phái thuộc hạ là Lý Toàn Trung đi đánh Dịch châu (易州, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc) thuộc Nghĩa Vũ (義武, trị sở nay thuộc Bảo Định) vào năm 885, Lưu Nhân Cung phục vụ dưới quyền Lý Toàn Trung. Khi thuộc hạ của Lý Toàn Trung là Vu Yến (于晏) bao vây Dịch châu vài tháng mà vẫn chưa chiếm được, Lưu Nhân Cung đã đưa ra kế đào một đường hầm xuyên vào trong thành. Nhờ công lao này, ông được biết đến với hiệu Lưu Quật Đầu (劉窟頭).
Phụng sự Lý Khắc Dụng
Lưu Nhân Cung cung cẩn phụng sự cho Lý Khắc Dụng và mưu chủ Cái Ngụ, Lý Khắc Dụng để lại một đội quân cùng một nhóm thuộc hạ đứng đầu là Yên Lưu Đức (燕留德) ở lại Lữ Long để phụ giúp cho Lưu Thủ Quang. trái ngược với thời kỳ độc lập, khi Lữ Long được giữ lại số thuế thu được. Năm 897, Đường Chiêu Tông chạy khỏi kinh thành Trường An đến Trấn Quốc (鎮國, trị sở nay thuộc Vị Nam, Thiểm Tây) do bị Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh tiến công, Lý Khắc Dụng lên kế hoạch cứu giúp hoàng đế. Lý Khắc Dụng yêu cầu được trưng dụng quân từ Lữ Long, song Lưu Nhân Cung từ chối và tuyên bố rằng Lữ Long cần phải phòng thủ Khiết Đan xâm nhập. Trong vài tháng, Lý Khắc Dụng liên tục gửi thư, song Lưu Nhân Cung tiếp tục từ chối. Khi Lý Khắc Dụng gửi thư với lời lẽ quở trách gay gắt, Lưu Nhân Cung đã ném thư xuống mặt nền, bắt giữ sứ giả của Hà Đông và cố gắng giết chết các quan Hà Đông tại Lữ Long, song họ đã chạy thoát theo mô tả trong Tư trị thông giám.
Quân phiệt độc lập
Vào mùa thu năm 897, tức giận tước sự phản bội của Lưu Nhân Cung, Lý Khắc Dụng đã đích thân tiến công Lữ Long. Lý Khắc Dụng giao chiến với con rể của Lưu Nhân Cung là Đan Khả Cập (單可及), song bị tướng Lư Long là Dương Sư Khản (楊師侃) phục kích tại Mộc Qua giản (木瓜澗, nay thuộc Bảo Định); song thời tiết đã ngăn cản Lữ Long quân gây tổn hại lớn hơn cho Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng buộc phải từ bỏ nỗ lực tái chiếm Lữ Long. Sau đó, Lưu Nhân Cung đã thiết lập mối quan hệ với kình địch của Lý Khắc Dụng là Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung, và theo tiến cử của Chu Toàn Trung, Đường Chiêu Tông đã ban cho Lưu Nhân Chung chức vụ danh dự là "đồng bình chương sự". Tuy nhiên, Lưu Nhân Cung cũng viết một bức thư cho Lý Khắc Dụng nhằm tạ lỗi.
Vào mùa đông năm 900, sau khi buộc Vương Dung quy phục, Chu Toàn Trung phái Trương Tồn Kính dẫn quân cùng với Ngụy Bác quân tiến công Lưu Nhân Cung. Trương Tồn Kính nhanh chóng chiếm được Doanh châu và Mạc châu của Lữ Long và Cảnh châu của Nghi Xương, bắt thứ sử Lưu Nhân Bá (劉仁霸). Trương Tồn Kính chuẩn bị tiến công U châu, song do thời tiết không thuận nên Trương Tồn Kính quay sang tiến công Nghĩa Vũ và buộc quân này phải quy phục.
Cũng vào năm 903, một thuộc quan của Lý Khắc Dụng là Vân châu đô tướng Vương Kính Huy (王敬暉) đã ám sát thứ sử Lưu Tái Lập (劉再立) và sau đầu hàng Lưu Nhân Cung. Lý Khắc Dụng đã phái Lý Tự Chiêu và Lý Tồn Thẩm đi đánh Vương Kính Huy, Lưu Nhân Cung phái quân đi cứu viện Vương Kính Huy, buộc Lý Tự Chiêu và Lý Tồn Thẩm rút lui một đoạn, Vương Kính Huy bỏ Vân châu và chạy sang lãnh địa của Lý Nhân Cung.
Qua năm tháng, Lưu Nhân Cung trở nên bảo thủ hơn trong việc cai trị Lữ Long, ông còn trở nên ngạo mạn, hoang phí và hung bạo. Cho rằng căn cứ tại U châu không an toàn, ông đã cho xây một quán tại Đại An Sơn (大安山, nay thuộc Bắc Kinh), giống như một cung điện. Lưu Nhân Cung tuyển nhiều mỹ nữ và đưa họ đến Đại An Sơn. Ông cũng giữ lại các nhà giả kim thuật nhằm tìm phương cách trường sinh. Lưu Nhân Cung tích trữ của cải của người dân trong toàn quân, sản xuất tiền bằng đất sét, và nghiêm cấm mua lá chè từ Giang Nam, thay vào đó dùng lá cây trong quân để thay thế chè.
Bị lật đổ, quản thúc
Khoảng năm 907 hoặc trước đó, khi biết Lưu Thủ Quang thông gian với ái thiếp La thị của mình, Lưu Nhân Chung đã đuổi Thủ Quang khỏi gia đình, và không còn công nhận Thủ Quang là con.
Qua đời
Vào mùa đông năm 913, trước các cuộc tiến công và bao vây của quân Tấn, U châu lâm vào tình thế tuyệt vong rồi thất thủ, Lưu Nhân Cung cùng thê thiếp bị bắt giữ. Lưu Thủ Quang cố gắng trốn chạy song cũng bị bắt. Thoạt đầu, Lý Tồn Úc không có hành động nào nhằm trừng phạt Lưu Thủ Quang hay Lưu Nhân Cung, cho họ sống trong một dinh thự và ban cho quần áo, chai lọ, thực phẩm, song Lưu Nhân Cung và vợ nhổ nước bọt vào mặt Lý Tồn Úc và nói: "Nghịch tặc, phá nhà ta đến thế này đây!".
Vào mùa xuân năm 914, Lý Tồn Úc cho đưa gia quyến của Lưu Nhân Cung và Lưu Thủ Quang qua Nghĩa Vũ và Thành Đức. Khi họ tiến đến Thành Đức, theo thỉnh cầu của Vương Dung, Lý Tồn Úc đã thời cho bỏ xiềng xích trên người Lưu Nhân Cung và Lưu Thủ Quang, cho họ tham gia một bữa tiệc do Vương Dung tổ chức. Sau khi họ trở về kinh thành Thái Nguyên của Tấn, Lý Tồn Úc đã cho xử tử Lưu Thủ Quang, sau đó sai tiết độ phó sứ Lô Nhữ Bật (盧汝弼) đưa Lưu Nhân Cung đến lăng mộ của Lý Khắc Dụng ở Đại châu (代州, nay thuộc Hãn Châu, Sơn Tây). Tại đây, ông bị đâm vào tim để lấy máu tế Lý Khắc Dụng, sau đó bị chém.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Nhân Cung** (, ? - 914) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông kiểm soát Lư Long (盧龍, trị sở nay thuộc Bắc Kinh) từ năm 895 đến năm 907. Thoạt
Quyết định của Tòa án tối cao tại luật _Obergefell v. Hodges_ rằng hôn nhân hợp pháp hóa hợp pháp ở các bang và hầu hết các vùng lãnh thổ không hợp pháp hoá hôn
Hôn nhân cùng giới ở tiểu bang Missouri của Hoa Kỳ là hợp pháp theo phán quyết mang tính bước ngoặt của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ tại Obergefell v. Hodges, đã đánh sập
Hôn nhân cùng giới đã hợp pháp tại Nam Phi kể từ khi Đạo luật dân sự bắt đầu có hiệu lực vào ngày 30 tháng 11 năm 2006. Quyết định của Tòa án Hiến
Hôn nhân cùng giới được công nhận hợp pháp trên toàn bộ México kể từ 31 tháng 12, 2022. Kết hợp dân sự đã được thực hiện hợp pháp tại Thành phố México và ở
**Hôn nhân cùng giới** đã trở thành hợp pháp tại **Colombia** vào ngày 28 tháng 4 năm 2016, khi Tòa án Hiến pháp Colombia phán quyết bằng một cuộc bỏ phiếu 6-3 cấm kết hôn
**Hôn nhân cùng giới** hay **hôn nhân đồng tính** là hôn nhân của hai người cùng giới tính hợp pháp. hôn nhân cùng giới đã được hợp pháp hóa và công nhận ở 38 quốc
Hôn nhân cùng giới ở Cộng hòa Ireland đã được hợp pháp kể từ ngày 16 tháng 11 năm 2015. Một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 22 tháng 5 năm 2015 đã sửa
**Hôn nhân cùng giới** hợp pháp ở tiểu bang California của Hoa Kỳ, và lần đầu tiên trở thành như vậy vào ngày 16 tháng 6 năm 2008, khi tiểu bang bắt đầu cấp giấy
Hôn nhân cùng giới đã trở thành hợp pháp tại bang Baja California của México vào ngày 3 tháng 11 năm 2017. Vào ngày đó, Chính phủ Tiểu bang tuyên bố sẽ ngừng thi hành
Guam, một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ, đã bắt đầu cấp phép và công nhận các cuộc hôn nhân cùng giới vào ngày 9 tháng 6 năm 2015, sau phán quyết của
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Cảnh Nhân cung** (chữ Hán: 景仁宮; ) là một cung điện thuộc Đông lục cung, nằm trong khuôn viên của hậu cung tại Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. "Cảnh Nhân" có ý nghĩa là "Cảnh
**Lưu Thủ Văn** (, ? - 910) là Nghĩa Xương tiết độ sứ vào cuối thời nhà Đường và đầu thời nhà Hậu Lương. Ông là con của Lữ Long tiết độ sứ Lưu Nhân
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Nhân Chú** (chữ Hán: 劉仁澍, ?-1433), hay **Lê Nhân Chú**, là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người xã An Thuận Thượng, Đại Từ, Thái Nguyên, Đại Việt
Hôn nhân cùng giới không được công nhận tại Nhật Bản. Kể từ năm 2018, 9 thành phố và phường thành phố hợp pháp hóa quan hệ bạn đời cùng giới, cung cấp một số
**Cuộc hôn nhân của Billie Ert và Antonio Molina** diễn ra vào ngày 5 tháng 10 năm 1972 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ. Cuộc hôn nhân của Ert và Molina được gọi là cuộc hôn
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với **69** tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình.
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Lưu huỳnh** (tên khác: **_Sulfur_** (đọc như _"Xun-phu"_), **_lưu hoàng_** hay **_diêm sinh_**) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu **S** và số nguyên tử 16. Nó là một phi
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Biểu** (chữ Hán: 劉表; 142-208), tên tự là **Cảnh Thăng**, là một chư hầu quân phiệt đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Lưu Biểu có tên tự là
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
**Lưu Thiện** (Trung văn giản thể: 刘禅, phồn thể: 劉禪, bính âm: Liú Shàn), 207 - 271), thụy hiệu là **Hán Hoài đế** (懷帝), hay **An Lạc Tư công** (安樂思公), hoặc **(Thục) Hán Hậu chủ**
**Cam phu nhân** (甘夫人; mất năm 210), còn gọi là **Chiêu Liệt Hoàng hậu** (昭烈皇后), là trắc thất phu nhân của Thục Hán Chiêu Liệt hoàng đế Lưu Bị và là mẹ đẻ của Thục
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Sở Lưu Hương** (chữ Hán: 楚留香, bính âm: Chu Liuxiang) là một nhân vật chính trong tác phẩm kiếm hiệp của Cổ Long và xuất hiện trong bộ Sở Lưu Hương hệ liệt. ## Thân
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Thủ Quang** (, ? - 12 tháng 2 năm 914 Lưu Nhân Cung cuối cùng đã ly khai Lý Khắc Dụng và trở thành một quân phiệt độc lập vào năm 897. Lưu Thủ
**Tiền Lưu** (chữ Hán: 錢鏐; 10 tháng 3 năm 852-6 tháng 5 năm 932, tên tự là **Cụ Mỹ** (具美), tiểu tự là **Bà Lưu** (婆留), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Vũ Túc
Trong lĩnh vực thư viện và lưu trữ, **lưu trữ số** là quá trình đảm bảo thông tin kỹ thuật số quan trọng có thể được truy cập và sử dụng trong tương lai. Quá
**Lưu Diễn** (chữ Hán: 劉縯; ? – 23), biểu tự **Bá Thăng** (伯升), là tướng quân khởi nghĩa Lục Lâm cuối thời nhà Tân trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh trai của Hán
**Lưu Côn** (chữ Hán: 劉琨; 271-318), tên tự là **Việt Thạch** (越石) là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà thơ thời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Ngụy Xương, Trung
**Vương quốc Lưu Cầu** (tiếng Okinawa: _Ruuchuu-kuku_; _Ryūkyū Ōkoku_; ) là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống
Đền Ngọc Sơn thờ Lưu Cơ ở Ninh Bình **Lưu Cơ** (chữ Hán: 劉基, 924-979) là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Thái phu nhân** (chữ Hán: 蔡夫人), hay **Sái phu nhân**, còn được gọi tắt là **Thái thị** hoặc **Sái thị** (蔡氏), là người vợ thứ của Lưu Biểu, lãnh chúa của vùng Kinh châu trong
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Lưu Minh Truyền** (, 07 tháng 09 năm 1836 – 12 tháng 01 năm 1896), còn đọc là **Lưu Minh Truyện**, tên tự là **Tỉnh Tam** (省三), hiệu là **Đại Tiềm Sơn Nhân**, người Tây
nhỏ|Một ví dụ về máy chủ gắn trên giá **Dịch vụ lưu trữ web** là một loại dịch vụ lưu trữ Internet cho phép các cá nhân và tổ chức truy cập trang web của
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong