✨Lịch sử Brunei

Lịch sử Brunei

Thời kỳ đầu

Không có nhiều nghiên cứu về thời tiền sử của Brunei, một số thư tịch cổ Trung Hoa có ghi chép từ thế kỷ 6 đã có sự giao thương qua lại giữa bờ đông bắc của đảo Kalimantan và Trung Hoa, và trong thiên niên kỷ thứ 1, Brunei đã chịu ảnh hưởng của Ấn giáo và Phật giáo từ Ấn Độ. Các tư liệu Trung Hoa cổ có nói đến một vương quốc tên là Puni, ở bờ tây bắc của đảo Kalimantan, từng cống nạp cho các hoàng đế Trung Hoa từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 9. Vào thế kỷ 15, Brunei có được độc lập nhiều hơn từ các láng giềng khổng lồ của mình. Khi tướng nhà Minh là Cheng Ho (Trịnh Hòa) đến Brunei vào đầu thế kỷ 15, trong chuyến thám sát vùng Đông Nam Á, ông đã phát hiện một cảng thương mại quan trọng có thương buôn người Hoa làm ăn phát đạt với chính quốc

Trở thành một nhà nước Hồi giáo

Brunei là một nước nhỏ trong mạng lưới thương mại ở Đông Á, song nó được các nước chủ chốt biết đến rất nhiều. Giữa thế kỷ 15, vua Brunei đã xin theo đạo Hồi khi cưới con gái của vua vùng Malaka. Người Bồ Đào Nha chinh phục Malaka năm 1511 và không cho giao thiệp buôn bán với các thương nhân Hồi giáo Một làn sóng thương nhân Hồi giáo giàu có định cư ở các nơi khác nhau của quần đảo Indonesia đã diễn ra và họ mang đến không chỉ nghề kinh doanh mà còn cả tín ngưỡng của họ nữa. Quá trình hồi giáo hoá vùng này đã là một lực đẩy mạnh mẽ. Brunei trở nên thịnh vượng từ cuộc chinh phục Melaka của người Bồ Đào Nha bởi đông đảo các thương nhân Hồi giáo đã bị thu hút về cảng Brunei. Khi Magellan đến Brunei năm 1521, ở đó đã là một thành phố thịnh vượng, có cộng đồng thương mại phát triển gắn với mạng lưới buôn bán Trung Hoa – Đông Nam Á. Suốt thể kỷ 16, Brunei có quan hệ thương mại và chính trị với các nhà nước Mã Lai khác, bao gồm quần đảo Indonesia, bán đảo Mã Lai, và miền nam Philippin

Giai đoạn phát triển và gây ảnh hưởng

Vào thế kỷ 16-17, Brunei trở thành một vương quốc đáng kể trong khu vực, khi ảnh hưởng của nó lan rộng đến miền nam Philippin và lãnh thổ của nó mở rộng đến hầu hết các cùng đất ở phía bắc của đảo Kalimantan, bao gồm luôn cả phần ngày nay là các bang Sarawak và Sabah của Malaysia. Là vương quốc hồi giáo đầu tiên trong khu vực, Brunei là căn cứ để hồi giáo hóa phía nam Phillippin cùng các vùng xung quanh, thường xuyên xung đột với Tây Ban Nha lúc đó đang chiếm đóng Philiippin theo Thiên Chúa giáo, sau khi Tây Ban Nha chiếm được Luzon là một đảo tại miền trung Phillippin. Năm 1578, người Tây Ban Nha tấn công Brunei và nhanh chóng chiếm được thủ đô, tuy nhiên họ không chiếm giữ được lâu vì lực lượng của họ bị bệnh tật giết hại lần mòn. Sau đó, Tây Ban Nha lại cố chinh phục vương quốc hồi giáo Sulu ở miền nam Phillippin và đã thành công vào thế kỷ 19

Brunei đã tận dụng được cuộc chinh phục Melaka của người Bồ Đào Nha, không những đưa Brunei trở thành một hải cảng quan trọng cho giới thương nhân Hồi giáo mà còn có thể đàm phán với người Bồ Đào Nha để hợp tác buôn bán ở vùng Đông Nam Á với Trung Hoa. Năm 1526, Bồ Đào Nha đặt một trạm buôn bán tại Brunei để thu mua các sản phẩm có giá trị của đảo Kalimantan và các đảo kế cận, Brunei trở thành một cảng dừng chân trên tuyến hàng hải từ Melaka tới Macau

Sức mạnh kinh tế và chính trị của Brunei đạt đến đỉnh cao vào giữa thế kỷ 17, Brunei đã tìm cách tránh đối mặt với Tây Ban Nha khi đạt được một hiệp định đôi bên cùng có lợi với Bồ Đào Nha. Kể từ giữa thế kỷ 17, Brunei càng lúc càng bị thách thức bởi vương quốc Solu ở các đảo phía đông bắc Kalimantan. Dưới sự cai trị của Brunei, vương quốc Solu đã dần dàn giành được độc lập hoàn toàn, thậm chí lấy lại từ Brunei các vùng đất ngày nay là bang Sabah của Malaysia

Thời kỳ suy yếu

Vào đầu thế kỷ 18, sức mạnh kinh tế và chính trị của các vị vua Mã Lai ở Kalimantan và vùng nam Phillippin ngày càng suy yếu. Quyền cai trị một thời rất hùng mạnh của các vua Brunei và Sulu nay chỉ còn lại quanh các thủ đô của họ. Sự suy yếu này là do sự phát triển các trung tâm buôn bán của người châu Âu ở Đông Nam Á. Họ chào mời các doanh nhân địa phương hàng tốt với giá rẻ hơn và không bị đánh thuế như ở các cảng của người Mã Lai. Sự phát triển mậu dịch địa phương với các trung tâm thương mại của người châu Âu, đặc biệt ở Singapore, Jakarta, Manila cùng với sự suy sụp của các trung tâm thương mại cổ xưa của Brunei và Sulu, đã làm giảm mạnh nguồn thu nhập của các vị vua Hồi giáo, kết quả là họ suy yếu về chính trị

Cùng với sự suy yếu về kinh tế, vương quốc Brunei còn bị suy kiệt vì việc tranh giành quyền lực bên trong hoàng tộc. Vua Omar Ali Saifuddin lên ngôi năm 1832 là một nhà cai trị kém cỏi, trong suốt thời gian ông trị vì, đã xảy ra cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe đo các tộc trưởng đứng đầu. Sự suy yếu quyền lực của vương quốc đã làm tăng sự độc lập của các địa phương và gia tăng sức mạnh của các tộc trưởng dưới quyền của các vị vua trước. Vào cuối những năm 1830, Sarawak, tỉnh xa nhất về phía tây, do được độc lập hơn với Brunei, đã công khai nổi dậy chống lại quan cai trị địa phương lộng quyền áp bức. Năm 1837, vương quốc cố đàn áp cuộc nổi dậy nhưng không thành

Sự can thiệp của người Anh

Vào nửa đầu thế kỷ 19, mối quan tâm của chính phủ Anh và Công ty Đông Ấn của Anh ở vùng Đông Nam Á chỉ giới hạn vào việc bảo vệ các tuyến đường giao thương với Trung Hoa, tuy nhiên hiệp ước Anh – Hà Lan năm 1824 đã không được Hà Lan thi hành dẫn tới làn sóng phản đối của các thương nhân ở Singapore và Anh. Họ cho rằng Anh cần trực tiếp thách thức vị trí của Hà Lan ở quần đảo Indonesia bằng cách mở một trung tâm mậu dịch ở phía đông Singapore, cuối những năm 1830 họ chú ý đến khu vực phía tây bắc của đảo Borneo, phần duy nhất của quần đảo không được coi là nằm dưới ảnh hưởng của Hà Lan

Trong tình hình vương quốc Brunei đang suy sụp, lại phải đối phó với các cuộc nổi loạn ở Sarawak và lợi ích thương mại ngày càng gia tăng của cộng đồng người Anh ở Singapore đối với bờ tây bắc của Kalimantan, thì một người Anh nổi bật là James Brooke xuất hiện vào tháng 8/1839, với thu nhập từ tài sản của người cha giàu có, ông ta mua được chiếc tàu và du hành trước tiên đến Singapore và sau đó qua bờ tây bắc Kalimantan, vào tháng 8/1839 sự xuất hiện đúng lúc của ông ở đầu sông Sarawak với một chiếc tàu có vũ trang đã chấm dứt cuộc nổi dậy của viên tù trưởng địa phương. Đổi lại, ông nhận được chức vụ toàn quyền Sarawak

Trong vòng 30 năm, Brooke đã xác lập một lãnh địa ở Sarawak và mở mang lãnh thổ với phí tổn do vua Brunei chịu, ông ta khéo léo thuyết phục các tư lệnh hải quân Anh ở Hồng Kông và Singapore để hỗ trợ ép tiểu vương Brunei đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Tuy vậy các nỗ lực của ông ta nhằm thuyết phục chính phủ Anh để cho Sarawak thành một nước bảo hộ của Anh đã không được chấp nhận. vua da trắng Brooke là một trong những trường hợp kỳ cục nhất trong lịch sử xâm chiếm thuộc địa của người Anh

Suy yếu và bị thu hẹp lãnh thổ

Tiểu vương Brunei suy yếu đã nhượng bổ thêm lãnh thổ vào năm 1877, lần này là trước một công ty tư nhân là American Trading Company do một người Anh và một người Áo làm chủ. Người Áo này cuối cùng đã bán công ty cho người Anh vào năm 1881, để giữ cho người Pháp và người Đức ở ngoài vùng quan trọng có tầm chiến lược, nước Anh đã ban tặng đặc quyền hoàng gia cho việc thành lập công ty Bristish North Borneo. Năm 1882, lãnh thổ Brunei càng bị Sarawak thâu tóm và vương quốc Brunei chỉ còn lại hai vùng bé nhỏ là thành phố Brunei và một mảnh đất nhỏ bên trong Sarawak.

Năm 1888, để bảo vệ những vùng đất còn lại một thời là của vương quốc Brunei hùng mạnh và để đảm bảo các cường quốc châu Âu khác không xâm chiếm được, người Anh đã tuyên bố bảo hộ các vùng Sarawak, Brunei và bắc Borneo. Vào năm 1906, người Anh đã bổ nhiệm một viên toàn quyền ở Brunei để giám sát, thay đổi cơ cấu chính quyền và đảm bảo sự tồn tại của Brunei với vùng Sarawak kế cận, vốn luôn chờ thời cơ để thôn tính Brunei

Lãnh thổ Brunei bị thu hẹp chỉ là cái bóng của bản thân nó trước kia, nhưng dầu hỏa và khí đốt đã được tìm thấy ở dưới lòng đất và lãnh hải của nó vào năm 1920. Lịch sử Brunei từ đó đã xoay chuyển theo tài sản khổng lồ do dầu hoả và khí đốt tạo ra, quốc vương và hoàng tộc Brunei trở nên giàu có rất nhanh

Các toàn quyền Anh ở Brunei:

Malcolm Stewart Hannibal McArthur (1872 - 1934): 2/1/1906 - tháng 5 năm 1907

Harvey Chevallier (lần 1): Tháng 5 năm 1907 - Tháng 12 năm 1907

Malcolm Stewart Hannibal McArthur: Tháng 12 năm 1907 - tháng 4 năm 1908

John Fortescue Owen (1869 - ?): Tháng 4 năm 1908 - 1909

Harvey Chevallier (lần 2): Tháng 11 năm 1909 - tháng 11 năm 1913

Francis William Douglas (1874 - 1953): Tháng 11 năm 1913 - Tháng 1 năm 1915

Ernest Barton Maundrell (1880 - 1916): Tháng 2 năm 1915 - 18/5/1916

Geoffrey Edmund Cator (1884 - 1973): 1916 - 1921

Lucien Arthur Allen (1888 - ?): Tháng 3 năm 1921 - 1923

Eric Ernest Falk Pretty (1891 - 1967)(lần 1): 1923 - 1926

Oswald Eric Venables (1891 - 1960): 1926 - 1927

Eric Ernest Falk Pretty (lần 2): 1927 - 1928

Patrick Alexander Bruce McKerron (1896 - 1964): 1928 - 1931

Thomas Falkland Carey (1903 - 1966): 1931 - 1934

Roland Evelyn Turnbull (1905 - 1960): 1934 - 1937

John Graham Black (1896 - 1988): 1937 - 1940

Ernest Edgar Pengilly (1897 - ?): 1940 - 1941

Masao Baba (chỉ huy Nhật Bản): 6/1/1942 - 14/6/1945

Keh Keay - Anh chỉ huy: Tháng 6 năm 1945 - 6 tháng 7 năm 1946

William John Peel (1912 - 2004): 1946 - 1948

Eric Ernest Falk Pretty (lần 3): 1948 - 1951

John Coleraine Hanbury Barcroft (1908 - 1958): 1951 - 1954

John Orman Gilbert (1907 - 1995): 1954 - 1958

Dennis Charles White (b. 1910 - d. 1983): 1958 - 29/9/1959

Cao ủy:

Dennis Charles White: 29/9/1959 - 1963

Angus MacKay Mackintosh (1915 - 1986): 1963

Edgar Ord Laird (1915 - 1992): 1963 - 1965

Fernley Douglas Webber (1918 - 1991): 1965 - 1967

Arthur Robin Adair (1913 - 1981): 1/5/1968 - 1972

Peter Gautrey (sinh 1918): 12/1/1972 - 1975

James Alfred Davidson (1922 - 2004): 8/1/1975 - 1978

Arthur Christopher Watson (b. 1927 - d. 2001): 6/11/1978 - 1983

Francis Cornish (sinh 1942): 5/8/1983 - 31/12/1983

Giai đoạn từ sau thế chiến 2

Sau chiến tranh thế giới 2 và sự thua trận của Nhật Bản, Brunei vẫn tiếp tục là nước được Anh bảo hộ. Quốc vương Brunei trị vì đất nước theo sự chỉ dẫn của toàn quyền Anh và dưới sự bảo vệ của đội quân Gurkha. Khi nước Anh mất dần thuộc địa ở Châu Á và Châu Phi, kiểu thuộc địa như ở Brunei bị coi là lỗi thời và vào năm 1959 Brunei được tự trị. Một hiến pháp được soạn thảo cho phép bầu cử hội đồng lập pháp, năm 1962, cuộc bầu cử lần đầu tiên đã được tổ chức. Đảng Rakyat Brunei đã thắng cử, đảng này phản đối chế độ quân chủ và đòi quyền dân chủ toàn diện, đồng thời cũng cổ xuý cho việc Brunei tham gia cùng các bang láng giềng của Sabah và Sarawak trong liên bang Malaysia. Đảng Rakyat bị quốc vương và giới quý tộc Brunei cực lực phản đối và các yêu sách của họ đã bị bác bỏ, Brunei vẫn là quốc gia theo chế độ quân chủ

Thất bại trong các yêu sách, đảng Rakyat tổ chức nổi dậy và đã bị đội quân Gurkha đóng tại Brunei nhanh chóng đập tan, quốc vương Brunei tuyên bố tình trạng khẩn cấp, đình chỉ hiến pháp, tuyên bố cuộc bầu cử không có hiệu lực và cấm đảng Rakyat hoạt động. Và đấy là cuộc bầu cử duy nhất ở Brunei. Vào năm 1962-1963, Brunei bị lôi kéo vào việc tham gia liên bang Malaysia, do các cuộc bất đồng về phân phối thu nhập từ dầu mỏ, khí đốt cũng như địa vị hoàng tộc khác của Brunei với các công quốc khác của Malaysia lúc đó dẫn tới Brunei vẫn quyết định là vương quốc bảo hộ thuộc Anh

Các dàn xếp liên quan đến chế độ bảo hộ đã thay đổi vào năm 1971, nhưng nước Anh vẫn giữ quyền kiểm soát về quốc phòng và ngoại giao, thái độ này của chính phủ Anh đã bị phê phán là vẫn duy trì một thứ tàn tích của chủ nghĩa thực dân, dẫn tới việc Brunei chính thức trở thành một nhà nước độc lập vào tháng 1 năm 1984. Tuy nhiên sự độc lập này ít mang lại thay đổi cho người dân Brunei, đảng phái chính trị vẫn bị cấm đoán, các bộ phận quan trọng vẫn nằm trong tay hoàng gia và các thành viên tin cậy của giới quý tộc

Từ những năm 1960, Brunei đã ngày càng quan tâm đến các quốc gia láng giềng Đông Nam Á, năm 1987, Brunei gia nhập ASEAN

Giai đoạn gần đây

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
## Thời kỳ đầu Không có nhiều nghiên cứu về thời tiền sử của Brunei, một số thư tịch cổ Trung Hoa có ghi chép từ thế kỷ 6 đã có sự giao thương qua
Malaysia là một quốc gia tại Đông Nam Á, vị trí hàng hải chiến lược của nó có những ảnh hưởng căn bản đối với lịch sử quốc gia. Văn hóa Ấn Độ giáo và
**Lịch sử Philippines** khác biệt nhiều mặt so với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, là nước duy nhất không bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và Ấn giáo, Philippines ngày nay là
nhỏ|phải|Vị trí [[Đông Nam Á trên bản đồ thế giới]] ## Tiền sử ### Các xã hội nông nghiệp đầu tiên Nông nghiệp, một sự phát triển tự nhiên dựa trên nhu cầu. Trước khi
**Lịch sử pháp lý** hay **lịch sử luật pháp** là nghiên cứu về cách mà luật pháp đã tiến hóa và lý do tại sao nó thay đổi. Lịch sử pháp lý gắn liền với
**Đế quốc Brunei** (, Jawi và ('Iimbraturiat Brunay)), là một Hồi quốc Mã Lai tập trung ở Brunei trên bờ biển phía bắc đảo Borneo tại Đông Nam Á. Vương quốc được thành lập vào
**Cuộc bạo động Brunei** diễn ra vào ngày 8 tháng 12 năm 1962, do Yassin Affandi lãnh đạo, khiến vua Brunei là Omar Ali Saifuddin III phải chạy sang nước láng giềng Malaysia và kêu
**Brunei**, quốc hiệu là **Brunei Darussalam**, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở bờ biển phía bắc của Borneo tại Đông Nam Á. Ngoại trừ dải bờ biển giáp biển Đông, quốc gia
**Đội tuyển Davis Cup Brunei** đại diện Brunei ở giải đấu quần vợt Davis Cup và được quản lý bởi Liên đoàn quần vợt Brunei. Đội chưa thi đấu kể từ năm 2008. Thành tích
**Đội tuyển Fed Cup Brunei** đại diện Brunei ở giải đấu quần vợt Fed Cup và được quản lý bởi Hiệp hội Quần vợt Brunei. Đội chưa thi đấu kể từ năm 1996. ## Lịch
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Lịch sử thế giới hiện đại** theo mốc từng năm, từ năm 1910 đến nay. ## Thập niên 1910 * 1910: Bắt đầu cuộc cách mạng México. George V trở thành vua của Vương quốc
**Bắc Borneo** () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc
**Sultan của Brunei** là nguyên thủ quốc gia và quân chủ chuyên chế của Brunei. Ông cũng là người đứng đầu chính phủ với tư cách là Thủ tướng. Kể từ khi giành lại độc
**Quân đội Brunei** hay tên đầy đủ là **Quân đội Hoàng gia Brunei** (_Angkatan Bersenjata Diraja Brunei_) được thành lập ngày 21 tháng 5 năm 1961 với tên gọi Askar Melayu Brunei (Trung đoàn Brunei).Từ
Mối quan hệ giữa Brunei và Hoa Kỳ bắt đầu từ thế kỷ 19. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1845 ,**USS _Constitutio_**_n_ đã đến Brunei.,Hai nước đã ký kết Hiệp ước Hòa bình.Hoa Kỳ
**Hội đồng Lập pháp Brunei** (Tiếng Mã Lai: _Majlis Mesyuarat Negara Brunei (مجليس مشوارت نڬارا بروني)_) là một cơ quan lập pháp đơn viện của Brunei. Hội đồng thường tổ chức cuộc họp hàng năm
**Hải quân Hoàng gia Brunei** là một lực lượng hải quân thuộc Quân đội Brunei. Đây là một lực lượng nhỏ nhưng trang bị tương đối đầy đủ, có trách nhiệm chính là tiến hành
**Brunei Super League** (giải bóng đá vô địch quốc gia Brunei) hay **DST Super League** (theo tên nhà tài trợ), là giải bóng đá chuyên nghiệp đỉnh cao của hệ thống giải đấu bóng đá
**Quan hệ Brunei – Việt Nam** đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Vương quốc Brunei Darussalam và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hai nước chính thức thiết lập quan
**Nội chiến Brunei** là một cuộc nội chiến nổ ra ở Brunei từ năm 1660 đến năm 1673. ## Nguyên nhân Trong thời gian trị vì của Sultan Muhammad Ali (1660-1661), có một bất đồng
Trong buổi đầu lịch sử Philippines, khu định cư người Tagalog tại **Tondo** (; Những người lữ hành từ các nền văn hóa hoàng gia có liên hệ với Tondo (bao gồm người Trung Hoa,
nhỏ|phải| Trung tâm Y Khoa Prima Sài Gòn, Việt Nam, điểm đến nổi tiếng về các phẫu thuật ngoại trú nhỏ|phải|Một khu spa ở Bangkok **Du lịch chăm sóc sức khỏe** (tiếng Anh: _Wellness tourism_)
phải|[[Nhà thờ chính tòa Phát Diệm về đêm]] **Năm Du lịch quốc gia 2020** với “_Hoa Lư - Cố đô ngàn năm_” là chuỗi các sự kiện từng được lên kế hoạch tổ chức của
thumb|Khẩu hiệu "Tình yêu không có tội" tại [[Paris Pride 2019]] **Hình sự hóa đồng tính luyến ái** là việc phân biệt một số hoặc tất cả các hành vi tình dục giữa nam giới
**Vương quốc Sarawak** (còn gọi là **Quốc gia Sarawak**; Hán-Việt: **Sa Lạp Việt** 砂拉越) là một lãnh thổ bảo hộ của Anh nằm tại phần tây bắc của đảo Borneo. Quốc gia này ban đầu
**Nhà nước Hồi giáo Sulu** (Tausūg: _Kasultanan sin Sūg_, Jawi: کسلطانن سولو دار الإسلام (Kasultanan Sūg), , (Saltanat Sulik)), là một cựu quốc gia đã từng nằm tại phía nam của Philippines. Cũng như Nhà
**Nổi dậy cộng sản Sarawak** diễn ra tại Malaysia từ năm 1962 đến năm 1990, liên quan đến Đảng Cộng sản của vùng lãnh thổ xứ Bắc Kalimantan và Chính phủ Malaysia. Đây là một
**Labuan** là một Lãnh thổ Liên bang của Malaysia. Labuan được biết đến bởi đây là một trung tâm tài chính và thương mại quốc tế cũng như là một địa điểm du lịch cho
**A.M. Azahari** (1929-2002), tên đầy đủ là Sheikh Azahari bin Sheikh Mahmud, là lãnh tụ của Đảng nhân dân Brunei, Đảng đã tiến hành cuộc lật đổ bất thành vua Omar Ali Saifuddin III trong
**Đài Phát thanh Truyền hình Brunei** (tiếng Mã Lai: Radio Televisyen Brunei, tên viết tắt là **RTB**) là đài truyền hình quốc gia của Brunei. Đài phát thanh Brunei phát sóng lần đầu tiên vào
phải|[[Nhà thờ Hồi Giáo Sultan Omar Ali Saifuddin]] **Bandar Seri Begawan** (chữ Jawi: بندر سري بڬاوان, phiên âm: Ban-đa Xe-ri Be-ga-van) là thủ đô và là thành phố hoàng gia của Brunei với dân số
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
**Chiến dịch Borneo** năm 1945 là chiến dịch lớn cuối cùng của Đồng Minh ở mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong một loạt các cuộc đổ
**_Biên niên sử Arthdal_** () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2019 được viết bởi bộ đôi biên kịch Kim Young-hyun và Park Sang-yeon, và đạo diễn bởi Kim Won-seok, dưới sự
**Chuyến bay 238 của Royal Brunei Airlines** là chuyến bay theo lịch trình từ Labuan đến Bandar Seri Begawan và Miri, do Merpati Intan thay mặt cho Royal Brunei Airlines khai thác. Vào ngày 6
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Thuộc địa vương thất Labuan** (tiếng Anh: _Crown Colony of Labuan_) là một thuộc địa vương thất, nằm ngoài khơi bờ biển phía tây bắc của đảo Borneo được thành lập vào năm 1848 sau
nhỏ|phải|Biểu trưng và khẩu hiệu của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo **Công ty Đặc hứa Bắc Borneo** (tiếng Anh: _North Borneo Chartered Company_) hay **Công ty Bắc Borneo thuộc Anh** (tiếng Anh: _British North
**Đánh giá người Việt Nam** là những đánh giá và nhận xét về tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán của người Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau đã được một
**Bão Yagi** (tên gọi ở Philippines là **Bão Enteng –** , được Việt Nam định danh là **Bão số 3 năm 2024**) là xoáy thuận nhiệt đới thứ 11 của Mùa bão Tây Bắc Thái
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
**Nepal** (phiên âm tiếng Việt: Nê-pan; ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal** ( ), là một quốc gia nội lục tại Nam Á. Dân số quốc gia Himalaya
**Năm mới Âm lịch** hay **Tết Âm lịch** (tiếng Anh: **Lunar New Year**) là tên gọi chung cho sự bắt đầu một năm mới tính theo âm lịch và âm dương lịch. Âm lịch được
thumb|██ Thành viên đầy đủ của ASEAN
██ Quan sát viên ASEAN
██ Ứng cử viên thành viên ASEAN
ASEAN+3
Hội nghị cấp cao Đông Á
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**_Ketuanan Melayu_** (nghĩa là "bá quyền của người Mã Lai") là một khái niệm chính trị nhấn mạnh tính ưu việt của người Mã Lai tại Malaysia hiện nay. Người Mã Lai tại Malaysia yêu