✨Nepal

Nepal

Nepal (phiên âm tiếng Việt: Nê-pan; ), tên chính thức là nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal ( ), là một quốc gia nội lục tại Nam Á. Dân số quốc gia Himalaya này đạt 29,16 triệu người vào năm 2021, sống trên lãnh thổ lớn thứ 93 thế giới. Nepal giáp với Trung Quốc về phía bắc, giáp với Ấn Độ về phía nam, đông và tây. Nepal cách Bangladesh 27 km tính từ mũi đông nam. Nepal đa dạng về địa lý, có các đồng bằng phì nhiêu, các đồi rừng cận núi cao, và có 8 trong số 10 núi cao nhất thế giới, trong đó có núi Everest. Kathmandu là thủ đô và thành phố lớn nhất của Nepal. Nepal là một quốc gia đa dân tộc, tiếng Nepal là ngôn ngữ chính thức.

Lãnh thổ Nepal có lịch sử được ghi nhận từ thời đồ đá mới. Tên gọi "Nepal" xuất hiện lần đầu trong các văn bản từ thời kỳ Vệ Đà, là thời kỳ hình thành Ấn Độ giáo. Vào giữa thiên niên kỷ 1 TCN, người sáng lập Phật giáo là Gautama Buddha sinh tại miền nam Nepal. Nhiều nơi thuộc miền bắc Nepal đan xen với văn hoá Tây Tạng. Thung lũng Kathmandu tại miền trung Nepal có nền văn minh đô thị phức tạp, là trụ sở của liên minh Newar thịnh vượng mang tên Nepal Mandala. Nhánh Himalaya của con đường tơ lụa cổ đại do các thương nhân của thung lũng này chi phối. Đến thế kỷ XVIII, Vương quốc Gorkha thống nhất được Nepal. Triều đại Shah thành lập Vương quốc Nepal và sau đó lập liên minh với Đế quốc Anh, với thực quyền thuộc gia tộc Rana truyền thế nắm chức thủ tướng. Nepal chưa từng bị thuộc địa hóa, song đóng vai trò là vùng đệm giữa Đại Thanh và Ấn Độ thuộc Anh. Trong thế kỷ XX, Nepal kết thúc thế cô lập và tạo dựng quan hệ vững chắc với các cường quốc khu vực. Chế độ nghị viện được thi hành vào năm 1951, song bị quốc vương đình chỉ hai lần vào năm 1960 và 2005. Nội chiến Nepal dẫn đến kết quả là tuyên bố thành lập nước cộng hoà vào năm 2008.

Nepal hiện nay là một nước cộng hoà nghị viện thế tục liên bang, gồm có bảy bang. Nepal là một quốc gia đang phát triển, có chỉ số phát triển con người HDI xếp thứ 144 thế giới vào năm 2016. Quốc gia này có mức độ nghèo đói cao, song tình hình dần cải thiện và chính phủ tuyên bố cam kết đưa quốc gia thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2022. Nepal cũng có tiềm năng khổng lồ về thủy điện để xuất khẩu. Nepal gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1955, ký kết các hiệp định hữu nghị với Ấn Độ vào năm 1950 và với Trung Quốc vào năm 1960. Nepal là thành viên của Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), Phong trào không liên kết và Sáng kiến Vịnh Bengal. Nepal nổi tiếng với lịch sử các binh sĩ Gurkha, đặc biệt là trong hai thế chiến, và có đóng góp quan trọng trong các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc.

Lịch sử

Cổ trung đại

Phát hiện được các công cụ đồ đá mới tại thung lũng Kathmandu, chỉ ra rằng loài người sống tại Himalaya ít nhất là 11.000 năm. Lớp cư dân cổ nhất được cho là tổ tiên của người Kusunda hiện nay. Theo Hogdson vào năm 1847, những cư dân ban đầu này có lẽ là gốc Australoid nguyên thủy.

Nepal được đề cập lần đầu trong Atharvaveda Pariśiṣṭa vào cuối thời Vệ Đà khi là một nơi xuất khẩu chăn, và trong Atharvashirsha Upanishad hậu Vệ Đà. Nepal cũng được đề cập trong các văn bản Ấn Độ giáo như Narayana Puja. Người nói tiếng thuộc hệ Tạng-Miến có lẽ sống tại Nepal từ 2500 năm trước. Các cư dân ban đầu của Nepal có gốc Dravidia, họ có lịch sử từ đầu thời kỳ đồ đồng tại Nam Á, trước khi các dân tộc Tạng-Miến và Ấn-Arya đến. Trong thế kỷ XI, nó dường như bao gồm cả khu vực Pokhara. Đến cuối thế kỷ XI, miền nam Nepal chịu ảnh hưởng của Vương triều Chalukya tại Nam Ấn Độ. Dưới thời Chalukya, cơ sở tôn giáo của Nepal biến đổi do các quốc vương bảo trợ Ấn Độ giáo thay vì Phật giáo vốn đang thịnh hành.

Vào đầu thế kỷ XII, các thủ lĩnh nổi lên tại cực tây Nepal có tên kết thúc bằng hậu tố tiếng Phạn malla ("đô vật"). Các quốc vương này củng cố quyền lực trong hai trăm năm sau đó, cho đến khi vương quốc bị tan rã thành nhiều tiểu quốc. Một triều đại Malla khác bắt đầu với Quốc vương Jayasthiti xuất hiện tại thung lũng Kathmandu vào cuối thế kỷ XIV, và phần lớn miền trung Nepal lại nằm dưới quyền cai trị thống nhất. Năm 1482, vương quốc này bị phân thành ba vương quốc: Kathmandu, Patan, và Bhaktapur.

Vương quốc Nepal

Đến giữa thế kỷ XVIII, một quốc vương người Gurkha là Prithvi Narayan Shah tập hợp thành Nepal ngày nay. Sau một số xung đột đổ máu, ông chinh phục được thung lũng Kathmandu vào năm 1769. Quyền thế của người Gurkha đạt đỉnh khi lãnh thổ của các vương quốc Kumaon và Garhwal tại phía tây đến Sikkim tại phía đông nằm dưới quyền cai trị của Nepal. Ở quy mô tối đa, Đại Nepal mở rộng đến sông Teesta tại phía đông, đến Kangra, qua sông Sutlej tại phía tây cũng như xa về phía nam đến đồng bằng Terai. Tranh chấp lãnh thổ giữa Nepal với Tây Tạng khiến Đại Thanh khởi động Chiến tranh Trung Quốc – Nepal (1788–1789), kết quả quân Nepal bị đẩy lui và phải trả bồi thường cao cho Bắc Kinh.

Kình địch giữa Vương quốc Nepal và Công ty Đông Ấn Anh về việc thôn tính các tiểu quốc giáp biên với Nepal cuối cùng dẫn đến Chiến tranh Anh – Nepal (1815–16). Ban đầu, người Anh đánh giá thấp người Nepal và thất bại cho đến khi có tăng viện. Họ rất ấn tượng trước lòng dũng cảm và năng lực của người Nepal, khởi đầu cho danh tiếng của các binh sĩ Gurkha. Chiến tranh kết thúc với kết quả là Nepal phải nhượng lại các phần đất mới chiếm của Sikkim và đất đai tại Terai, cũng như quyền tuyển binh.

Chủ nghĩa bè phái trong hoàng tộc dẫn đến một giai đoạn bất ổn. Năm 1846, một âm mưu bị phát giác tiết lộ rằng nữ vương có kế hoạch lật đổ một thủ lĩnh quân sự là Jung Bahadur Kunwar, dẫn đến thảm sát trong triều đình. Jung Bahadur Kunwar thắng lợi và lập ra triều đại Rana. Dưới triều đại này, quốc vương là một nhân vật danh nghĩa, trong khi chức vụ thủ tướng đầy quyền lực và được kế tập. Gia tộc Rana ủng hộ Anh và hỗ trợ người Anh trong Khởi nghĩa Ấn Độ 1857, cũng như trong hai thế chiến. Người Anh trao cho Nepal một số nơi tại khu vực Terai dù cư dân tại đó không phải người Nepal, đây là một cử chỉ hữu nghị do Nepal giúp Anh trấn áp khởi nghĩa tại Ấn Độ. Năm 1923, Anh và Nepal chính thức ký kết một hiệp ước hữu nghị.

Đến cuối thập niên 1940, các phong trào ủng hộ dân chủ và chính đảng mới xuất hiện tại Nepal chỉ trích chế độ chuyên quyền Rana. Trong khi đó, quân đội Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng trong thập niên 1950, Ấn Độ tìm cách đối trọng bằng cách thực hiện các bước đi nhằm khẳng định ảnh hưởng hơn nữa tại Nepal. Ấn Độ bảo trợ cho cựu vương Tribhuvan tái đăng cơ vào năm 1951, và cũng bảo trợ một chính phủ mới gồm hầu hết là thành viên Đảng Đại hội Nepal, do đó kết thúc quyền bá chủ của gia tộc Rana tại Nepal. Năm 1991–92, Bhutan trục xuất khoảng 100.000 người gốc Nepal, hầu hết họ đến sống trong các trại tị nạn tại miền đông Nepal.

Năm 1996, Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) bắt đầu một nỗ lực nhằm thay thế hệ thống nghị viện hoàng gia bằng một nước cộng hoà nhân dân bằng phương thức bạo lực, dẫn đến nội chiến Nepal làm hơn 12.000 người thiệt mạng. Ngày 1 tháng 6 năm 2001, xảy ra thảm sát trong hoàng cung Nepal, Quốc vương Birendra cùng vương hậu và nhiều thành viên vương thất khác bị giết, Thái tử Dipendra được cho là thủ phạm và tự tử ngay lúc đó. Sau sự việc, em trai của Quốc vương Birendra là Gyanendra kế thừa vương vị. Ngày 1 tháng 2 năm 2005, Quốc vương Gyanendra giải tán toàn bộ chính phủ và đảm nhiệm đầy đủ quyền lực hành pháp nhằm dập tắt phong trào Maoist (tư tưởng Mao Trạch Đông). Dự luật có hiệu lực vào ngày 28 tháng 5 năm 2008. Đảng Cộng sản Thống nhất Nepal (Maoist) giành nhiều ghế nhất trong bầu cử Hội đồng Lập pháp vào ngày 10 tháng 4 năm 2008, lập ra một chính phủ liên minh. Tháng 10 năm 2015, Bidhya Devi Bhandari trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Nepal. Ngày 20 tháng 9 năm 2015, hiến pháp mới được Tổng thống Ram Baran Yadav công bố, hội đồng lập pháp chuyển đổi thành một nghị viện. Theo hiến pháp, Nepal chuyển thành một nước cộng hoà dân chủ liên bang gồm bảy bang.

Ngày 25 tháng 4 năm 2015, một trận động đất mạnh tấn công Nepal. Đến ngày 12 tháng 5, một trận động đất mạnh khác lại tấn công Nepal, chúng khiến hơn 8.500 người thiệt mạng và khoảng 21.000 người bị thương.

Địa lý

thumb|Bản đồ địa hình Nepal. Nepal có lãnh thổ gần giống hình thang, dài 800 km và rộng 200 km, có diện tích 147.181 km². Nepal nằm giữa vĩ tuyến 26° và 31° Bắc, kinh tuyến 80° và 89° Đông. Nepal thường được chia thành ba khu vực địa văn học: núi, đồi và Terai. Các vành đai sinh thái này kéo dài theo chiều đông tây và giao cắt với các hệ thống sông lớn chảy từ bắc xuống nam.

Vùng đồng bằng đất thấp miền nam còn gọi là Terai, nó giáp với Ấn Độ và là bộ phận của rìa phía bắc đồng bằng Ấn-Hằng. Nó hình thành và được tưới tiêu từ ba sông lớn của Himalaya là Kosi, Narayani, và Karnali cũng các sông nhỏ khởi nguồn bên dưới đường tuyết vĩnh cửu. Khu vực này có khí hậu cận nhiệt đới đến nhiệt đới. Khu chân núi ngoại biên nhất mang tên vùng đồi Sivalik hoặc dãy Churia cao từ 700 đến 100m, đánh dấu giới hạn của đồng bằng sông Hằng, tuy nhiên các thung lũng rộng và thấp gọi là các thung lũng Nội Tarai nằm tại một vài nơi về phía bắc của các khu chân núi này.

Vùng Đồi (Pahad) giáp các ngọn núi và độ cao là từ 800m đến 4000m, có khí hậu biến đổi từ cận nhiệt đới ở nơi cao dưới 1.200m đến núi cao ở nơi cao trên 3.600m. Dãy Hạ Himalaya có độ cao 1500m đến 3000m là giới hạn phía nam của vùng này, với các thung lũng sông cận nhiệt đới và "đồi" xen kẽ đến phía bắc của dãy này. Mật độ dân số tại các thung lũng ở mức cao song ít hơn đáng kể ở độ cao trên 2000 m và rất thấp ở độ cao trên 2.500 mét do tuyết thường rơi vào mùa đông.thumb|Núi tại NepalKhu vực núi (Himal) nằm trên dãy Đại Himalaya, chiếm phần phía bắc của Nepal. Khu vực này có những điểm cao nhất thế giới như núi Everest (Sagarmāthā trong tiếng Nepal) cao 8848 m trên biên giới với Trung Quốc. Bảy trong số 14 đỉnh cao trên 8000 m của thế giới nằm tại Nepal hoặc trên biên giới Nepal-Trung Quốc: Lhotse, Makalu, Cho Oyu, Kangchenjunga, Dhaulagiri, Annapurna và Manaslu. Xói mòn của dãy Himalaya là một nguồn trầm tích rất quan trọng, chảy qua một số sông lớn như sông Ấn, sông Hằng và sông Brahmaputra ra Ấn Độ Dương.

Va chạm giữa tiểu lục địa Ấn Độ và mảng Á-Âu bắt đầu từ kỷ Paleogen và tiếp tục cho đến nay, tạo ra dãy Himalaya và cao nguyên Thanh-Tạng. Nepal nằm hoàn toàn trong đới va chạm này, chiếm phần trung tâm của dãy Himalaya, gần một phần ba chiều dài 2.400 km của dãy núi. Mảng Ấn Độ tiếp tục di chuyển về phía bắc so với châu Á với mức độ khoảng 5 cm mỗi năm. Khi lớp vỏ lục địa của mảng Ấn Độ hút chìm dưới lớp vỏ tương đối yếu của Tây Tạng, nó tạo nên dãy Himalaya.

Nepal có năm vùng khí hậu, đại thể tương ứng theo độ cao. Vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nằm dưới 1.200 m, vùng ôn đới từ 1.200m đến 2.400m, vùng lạnh từ 2.400m đến 3.600m, vùng cận cực từ 3.600m đến 4.400m, và vùng băng giá trên 4.400m. Nepal có năm mùa: hè, gió mùa, thu, đông và xuân. Dãy Himalaya ngăn gió lạnh từ Trung Á vào mùa đông và tạo thành giới hạn phía bắc của mô hình gió mùa. Nepal từng có rừng bao phủ dày đặc, song phá rừng là một vấn đề lớn tại tất cả các vùng, gây ra xói mòn và suy thoái hệ sinh thái.

Nepal nổi tiếng với những nhà leo núi, có nhiều đỉnh cao nhất và thử thách nhất thế giới. Về kỹ thuật, sườn đông nam của Everest thuộc Nepal dễ leo hơn nên hầu hết mọi người chuộng lên núi từ Nepal thay vì Tây Tạng.

Các núi cao nhất tại Nepal:

Khác biệt đáng kể về độ cao tại Nepal dẫn đến đa dạng về quần xã sinh vật, từ xa van nhiệt đới dọc biên giới với Ấn Độ, đến rừng lá rộng và rừng lá kim cận nhiệt đới tại vùng đồi, đến rừng là rộng và rừng lá kim ôn đới trên sườn của dãy Himalaya, đến các đồng cỏ và vùng cây bụi núi cao cùng đá và băng trên những nơi cao nhất. Tại những nơi có độ cao thấp, có vùng sinh thái xa van và đồng cỏ Terai-Duar, rừng lá rộng cận nhiệt đới Himalaya xuất hiện từ độ cao 500 m đến 1000 m và bao gồm Thung lũng Nội Terai. Rừng thông cận nhiệt đới xuất hiện từ độ cao 1000 m đến 2.000 m. Trên 2000 m, địa lý sinh vật của Nepal về đại thể được phân chia thành đông và tây qua sông Gandaki. Vùng sinh thái phía đông có xu hướng nhiều mưa hơn và phong phú về loài hơn, còn vùng phía tây thì khô hơn và có ít loài hơn. Từ độ cao 1500 m đến 3000 m là rừng lá rộng ôn đới, phân thành vùng phía đông và phía tây. Từ độ cao 3000 m đến 4000 m là rừng lá kim phía đông và phía tây cận cực Himalaya. Dưới 5500 m là cây bụi và bãi cỏ vùng cực phía đông và phía tây Himalaya.

Chính trị

thumb|[[Pushpa Kamal Dahal thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist-Trung dung) là thủ tướng trong giai đoạn 2008-2009 và 2016-2017.]] Nepal trải qua biến đổi chính trị nhanh chóng trong những thập niên gần đây. Nepal từng là một quốc gia quân chủ do quốc vương nắm quyền hành pháp, đến năm 1990 do áp lực từ phong trào cộng sản chống chế độ quân chủ chuyên chế, Quốc vương Birendra chấp thuận cải cách chính phủ quy mô lớn và tạo ra một chế độ quân chủ lập hiến. Các chính phủ tại Nepal có xu hướng không ổn định cao độ, bị hạ bệ thông qua sụp đổ nội bộ hoặc quốc vương giải tán nghị viện theo khuyến nghị của thủ tướng; không chính phủ nào tồn tại quá hai năm kể từ năm 1991. Tháng 12 năm 2007, nghị viện lâm thời thông qua một dự luật đưa Nepal thành một nước cộng hoà liên bang, nguyên thủ quốc gia là tổng thống. Bầu cử hội đồng lập hiến được tổ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2008, kết quả là đảng Maoist (tư tưởng Mao Trạch Đông) dành nhiều ghế nhất. Nghị viện mới phê chuẩn dự luật năm 2007 trong phiên họp đầu tiên, và Quốc vương Gyanendra phải rời khỏi vương cung tại Kathmandu vào ngày 11 tháng 6.

Đảng Cộng sản Thống nhất Nepal (Maoist) khi đó lập ra một chính phủ liên minh, Madhav Kumar Nepal thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Marxist–Leninist Thống nhất) trở thành thủ tướng của chính phủ liên minh. Đến tháng 2 năm 2011, chính phủ của Madhav Kumar bị hạ bệ, và Jhala Nath Khanal cũng thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Marxist–Leninist Thống nhất) trở thành thủ tướng. Đến tháng 8 năm 2011, chính phủ của Jhala Nath Khanal bị hạ bệ và Baburam Bhattarai cũng thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) trở thành thủ tướng. Các chính đảng không thể soạn thảo một hiến pháp trong thời gian quy định, dẫn đến giải tán hội đồng lập hiến và mở đường cho cuộc bầu cử mới, Chánh án Khil Raj Regmi trở thành chủ tịch của chính phủ lâm thời. Dưới quyền Regmi, Nepal tổ chức bầu cử hoà bình để chọn hội đồng lập pháp, các thế lực lớn trong hội đồng lập pháp khoá trước là phe Maoist và Madhesi đạt kết quả kém.

Trong tháng 2 năm 2014, sau nhất trí giữa hai chính đảng lớn nhất trong hội đồng lập hiến, Sushil Koirala tuyên thệ nhậm chức thủ tướng của Nepal. Ngày 20 tháng 9 năm 2015, hiến pháp mới được công bố, hội đồng lập pháp chuyển thành một nghị viện, Nepal thực tiễn trở thành một nước cộng hoà dân chủ liên bang gồm bảy bang chưa có tên. Tháng 10 năm 2015, Bidhya Devi Bhandari trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Nepal. Pushpa Kamal Dahal thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist-Trung dung) trở thành thủ tướng vào tháng 8 năm 2016. Sher Bahadur Deuba thuộc Đảng Đại hội Nepal lần thứ tư trở thành thủ tướng vào tháng 6 năm 2017. Khadga Prasad Oli tái nhậm chức thủ tướng vào tháng 2 năm 2018

Nepal nằm trong số ít quốc gia tại châu Á bãi bỏ hình phạt tử hình. Năm 2008, Toà án tối cao của Nepal ra phán quyết cấp quyền đầy đủ cho các cá nhân LGBT, bao gồm quyền kết hôn và toà án tối cao vào năm 2007 cho phép đăng ký quyền công dân với giới tính thứ ba. Tuy nhiên, chính phủ chưa ban hành luật về hôn nhân đồng giới

Hiến pháp Nepal hiện hành có hiệu lực vào ngày 20 tháng 9 năm 2015, thay thế cho hiến pháp lâm thời từ năm 2007. Hiến pháp là luật cơ bản của Nepal, nó xác định Nepal là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa tôn giáo, đa văn hoá với nguyện vọng chung của nhân dân sống trong các khu vực địa lý đa dạng, cam kết và đoàn kết thông qua ràng buộc trung thành với độc lập quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích và thịnh vượng của Nepal. Hiến pháp Nepal định nghĩa ba cơ quan của chính phủ, Hình thức quản lý của Nepal sẽ là hệ thống nghị viện cộng hoà dân chủ liên bang đa đảng cạnh tranh, dựa theo đa số.

Chính phủ

thumb|Cổng vào [[Singha Durbar, trụ sở của chính phủ Nepal tại Kathmandu]]Quyền lực hành pháp thuộc về Hội đồng Bộ trưởng, tổng thống sẽ bổ nhiệm thủ lĩnh của chính đảng chiếm đa số trong hạ nghị viện làm thủ tướng, người này đứng đầu Hội đồng bộ trưởng. Quyền lực hành pháp cấp tỉnh thuộc về Hội đồng Bộ trưởng cấp tỉnh, tỉnh tưởng thi hành quyền hành pháp trong trường hợp không có tổ chức hành pháp khi có tình huống khẩn cấp hoặc thực thi lệnh của liên bang. Mỗi tỉnh sẽ có một tỉnh trưởng, người này là đại biểu của chính phủ liên bang do tổng thống bổ nhiệm. Tỉnh trưởng sẽ bổ nhiệm thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong hội đồng cấp tỉnh làm thủ hiến và người này đứng đầu Hội đồng bộ trưởng cấp tỉnh.

Quốc hội Liên bang gồm Viện Dân biểu là hạ viện và Viện Quốc dân là thượng viện. Nhiệm kỳ của Viện Dân biểu 5 năm, trừ khi bị giải tán trước thời hạn. Viện Dân biểu gồm 275 đại biểu, trong đó 165 đại biểu được bầu ra từ 165 khu vực bầu cử phân theo địa lý và dân số, theo thể thức đa số đơn thuần; 110 đại biểu được bầu theo hệ thống đại diện tỷ lệ, do cử tri bầu theo danh sách đảng. Nhiệm kỳ của thành viên Viện Quốc dân là sáu năm, gồm có 59 thành viên. Trong đó 56 người được bầu từ cử tri đoàn gồm thành viên hội đồng cấp tỉnh, chủ tịch cùng phó chủ tịch các làng và thị trưởng cùng phó thị trưởng, mỗi tỉnh đều có tám đại biểu, trong đó ít nhất phải có ba nữ giới, một người Dalit (tiện dân), một đại biểu khuyết tật hoặc thiểu số. Ba thành viên còn lại của Viện Quốc dân do tổng thống bổ nhiệm theo khuyến nghị của chính phủ, và phải có ít nhất là một nữ giới.

Quyền lực tư pháp tại Nepal do các toà án và thể chế tư pháp khác thi hành, phù hợp với các điều khoản trong hiến pháp, các pháp luật và nguyên tắc tư pháp được công nhận khác. Hệ thống toà án Nepal gồm có Toà án tối cao, Toà án cấp cao, Toà án cấp huyện.

Ngoại giao - Quốc phòng

Nepal có quan hệ mật thiết với hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Quốc. Theo một hiệp định lâu dài, các công dân Ấn Độ và Nepal có thể qua lại quốc gia kia mà không cần hộ chiếu hoặc thị thực. Công dân Nepal có thể làm việc tại Ấn Độ mà không gặp hạn chế về pháp lý. Lục quân Ấn Độ duy trì bảy trung đoàn Gorkha gồm các binh sĩ hầu hết tuyển từ Nepal. Tuy nhiên, từ khi chính phủ Nepal do các phái cộng sản chi phối còn chính phủ Ấn Độ do phái hữu khuynh hơn kiểm soát, Ấn Độ tái vũ trang biên giới Ấn Độ-Nepal với lý do kiềm chế các tổ chức Hồi giáo xâm nhập. Nepal thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1955, quan hệ giữa hai bên từ đó dựa trên 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Nepal từng viện trợ Trung Quốc sau Động đất Tứ Xuyên 2008, và Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế cho cơ sở hạ tầng của Nepal. Hai quốc gia hợp tác tổ chức rước đuốc Thế vận hội 2008 trên đỉnh Everest. Nepal kiềm chế người Tây Tạng lưu vong biểu tình phản đối Trung Quốc.

Lục quân Nepal bao gồm cả Cục Hàng không Lục quân. Lực lượng cảnh sát Nepal là lực lượng dân sự còn Lực lượng Quân cảnh Nepal là lực lượng bán vũ trang. Phục vụ quân đội là tình nguyện, tuổi tối thiểu tuyển quân là 18. Phần lớn thiết bị quân sự được nhập khẩu từ Ấn Độ. Hoa Kỳ từng cung cấp các loại vũ khí như M16, M4 cho Nepal để chiến đấu với phiến quân cộng sản (Maoist). Súng trường tiêu chuẩn của Lục quân Nepal là Colt M16. Theo quy định từ năm 2013 của Lục quân Nepal, nữ binh sĩ bị ngăn việc tham gia trong tình huống chiến đấu và chiến đấu tại tiền tuyến chiến tranh. Tuy nhiên, họ được phép tham gia lục quân trong các lĩnh vực như tình báo, bộ chỉ huy, tín hiệu.

Hành chính

thumb|Đơn vị hành chính của Nepal (tỉnh và huyện).

Tính đến năm 2015, Nepal được chia thành 7 tỉnh và 75 huyện. Tồn tại bốn đô thị, 13 phó đô thị, 246 hội đồng đô thị và 481 hội đồng làng chính thức. Hiến pháp trao 22 quyền lực tuyệt đối cho các đơn vị địa phương, và họ chia sẻ 15 quyền nữa với chính phủ trung ương và cấp tỉnh.

Tỉnh Koshi

:1 – Huyện Bhojpur :2 – Huyện Dhankuta :3 – Huyện Ilam :4 – Huyện Jhapa :5 – Huyện Khotang

:6 – Huyện Morang :7 – Huyện Okhaldhunga :8 – Huyện Panchthar :9 – Huyện Sankhuwasabha :10 – Huyện Solukhumbu

:11 – Huyện Sunsari :12 – Huyện Taplejung :13 – Huyện Terhathum :14 – Huyện Udayapur

Tỉnh Madhesh

:1 – Huyện Bara :2 – Huyện Dhanusa :3 – Huyện Mahottari

:4 – Huyện Parsa :5 – Huyện Rautahat :6 – Huyện Saptari

:7 – Huyện Sarlahi :8 – Huyện Siraha

Tỉnh Bagmati

:1 – Huyện Bhaktapur :2 – Huyện Chitwan :3 – Huyện Dhading :4 – Huyện Dolakha :5 – Huyện Kathmandu

:6 – Huyện Kavrepalanchok :7 – Huyện Lalitpur :8 – Huyện Makwanpur :9 – Huyện Nuwakot :10 – Huyện Ramechhap

:11 – Huyện Rasuwa :12 – Huyện Sindhuli :13 – Huyện Sindhulpalchok

Tỉnh Gandaki

:1 – Huyện Baglung (phần phía đông) :2 – Huyện Gorkha :3 – Huyện Kaski :4 – Huyện Lamjung

:5 – Huyện Manang :6 – Huyện Mustang :7 – Huyện Myagdi :8 – Huyện Nawalparasi (phía đông của Bardaghat Susta)

:9 – Huyện Parbat :10 – Huyện Syangja :11 – Huyện Tanahu

Tỉnh Lumbini

:1 – Huyện Arghakhanchi* :2 – Huyện Baglung (phần phía tây) :3 – Huyện Banke :4 – Huyện Bardiya :5 – Huyện Dang Deukhuri

:6 – Huyện Gulmi :7 – Huyện Kapilvastu :8 – Huyện Nawalparasi (phía tây của Bardaghat Susta) :9 – Huyện Palpa :10 – Huyện Pyuthan*

:11 – Huyện Rolpa :12 – Huyện Rukum (phần phía đông) :13 – Huyện Rupandehi

Tỉnh Karnaki

:1 – Huyện Dailekh :2 – Huyện Dolpa :3 – Huyện Humla :4 – Huyện Jajarkot

:5 – Huyện Jumla :6 – Huyện Kalikot :7 – Huyện Mugu :8 – Huyện Rukum (phần phía tây)

:9 – Huyện Salyan :10 – Huyện Surkhet

Tỉnh Sudurpashchim

:1 – Huyện Achham :2 – Huyện Baitadi :3 – Huyện Bajhang

:4 – Huyện Bajura :5 – Huyện Dadeldhura :6 – Huyện Darchula

:7 – Huyện Doti :8 – Huyện Kailali :9 – Huyện Kanchanpur

* – các huyện được đề xuất chuyển sang Tỉnh Số 4 và Tỉnh Số 6

Kinh tế

thumb|left|Ruộng bậc thang tại Nepal GDP danh nghĩa của Nepal vào năm 2016 là hơn 24 tỷ USD. Trong khi phần đóng góp của nông nghiệp và công nghiệp đang thu hẹp, thì đóng góp của lĩnh vực dịch vụ lại gia tăng.

76% lực lượng lao động nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, tiếp đến là dịch vụ với 18% và chế tạo cùng thủ công nghiệp chiếm 6%. Nông sản chủ yếu được trồng tại khu vực Terai giáp với Ấn Độ, gồm có trà, gạo, ngô, lúa mì, mía, các loại củ, sữa, và thịt trâu. Công nghiệp chủ yếu liên quan đến chế biến nông sản, gồm có đay, mía, thuốc lá và ngũ cốc. Nepal thiếu hụt nghiêm trọng lao động có kỹ năng.

Tăng trưởng kinh tế của Nepal tiếp tục bị ảnh hưởng bất lợi do biến động chính trị. Tuy thế, tăng trưởng GDP thực được ước tính là gần 5% năm 2011–2012, cao hơn 3,5% năm 2010–2011. Nguồn gốc tăng trưởng gồm có nông nghiệp, xây dựng, tài chính và các ngành dịch vụ khác. Đóng góp của tiêu thụ cho tăng trưởng được thúc đẩy từ kiều hối. Kiều hối được ước tính tương đương 25–30% GDP (2012). Lạm phát năm 2012 giảm xuống mức thấp là 7% trong ba năm tính đến 2012.

Nepal có cảnh quan ngoạn mục, có văn hoá đa dạng và kỳ lạ nên có tiềm năng đáng kể về du lịch, song tăng trưởng trong lĩnh vực này bị cản trở do bất ổn chính trị và hạ tầng yếu kém. Mặc dù vậy, trong năm 2012 lượng du khách quốc tế đến Nepal đạt 598.204, tăng 10% so với năm trước. Du lịch đóng góp gần 3% cho GDP quốc gia vào năm 2012 và là nguồn thu nước ngoài lớn thứ nhì sau kiều hối.

Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đạt đến một nửa dân số trong độ tuổi lao động. Do đó, nhiều công dân Nepal chuyển đến các quốc gia khác tìm việc, các điểm đến gồm có Ấn Độ, Qatar, Hoa Kỳ, Thái Lan, Anh, Ả Rập Saudi, Nhật Bản, Brunei, Úc và Canada. Nepal nhận được 50 triệu USD mỗi năm từ các binh sĩ Gorkha phục vụ trong quân đội của Ấn Độ và Anh. Năm 2010, tổng giá trị kiều hối là khoảng 3,5 tỷ USD. Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Thụy Sĩ và các quốc gia Scandinavia.

Hàng hoá xuất khẩu chính của Nepal là thảm, quần áo, gai dầu, hàng da thuộc, hàng đay và ngũ cốc. Hàng hoá nhập khẩu chính là vàng, máy móc và thiết bị, sản phẩm dầu mỏ và phân bón. Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Đức là các đối tác xuất khẩu chính. Liên minh châu Âu là khách hàng lớn nhất của quần áo may sẵn từ Nepal. Các đối tác nhập khẩu quan trọng của Nepal là Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Trung Quốc.

Cơ sở hạ tầng

thumb|Đập thủy điện Trung Marshyandi. Nepal có tiềm năng đáng kể về thủy điện, có các kế hoạch xuất khẩu điện khắp Nam Á Phần lớn năng lượng tại Nepal lấy từ gỗ nhiên liệu, phế phẩm nông nghiệp, phân động vật, và nhiên liệu hoá thạch nhập khẩu theo số liệu năm 2012. Nepal không phát hiện được dầu mỏ, khí đốt hoặc than đá, song có một số trữ lượng than non. Toàn bộ nhiên liệu hoá thạch thương mại (chủ yếu là dầu và than đá) được nhập khẩu từ Ấn Độ hoặc thị trường quốc tế qua ngả Ấn Độ và Trung Quốc. Nhập khẩu nhiên liệu chiếm hơn 25% thu nhập ngoại hối của Nepal. Chỉ có khoảng 40% dân chúng Nepal tiếp cận được điện năng (2012).

Nepal cô lập với các tuyến vận chuyển lớn của thế giới cả trên bộ, trên không và trên biển. Tại Nepal, hàng không có tình trạng tốt hơn, với 47 sân bay, trong đó 11 sân bay có đường băng được trải nhựa; các chuyến bay thường xuyên và hỗ trợ chuyên chở quy mô lớn. Địa hình đồi núi tại hai phần ba phía bắc của quốc gia khiến việc xây dựng đường và các hạ tầng khác trở nên khó khăn và tốn kém. Năm 2007, Nepal chỉ có hơn 10.142 km đường bộ được trải bề mặt, và 7.140 km đường chưa được trải, và có một tuyến đường sắt dài 59 km tại phía nam. Cửa ngõ hàng hải duy nhất trên thực tế của hàng hoá từ Kathmandu là Kolkata của Ấn Độ. Tình trạng phát triển kém của mạng lưới đường bộ khiến việc tiếp cận chợ, trường học, và phòng khám là một thách thức.

Thông tin và truyền thông

Theo một báo cáo vào năm 2012, có bảy nhà khai thác và tổng cộng số thuê bao điện thoại là trên 16 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 61,42%. Dịch vụ điện thoại cố định chiếm 9,37%, điện thoại di động chiếm 64,63%, và các dịch vụ khác (LM, GMPCS) chiếm 3,76% tổng tỷ lệ thâm nhập. Tương tự, số thuê bao dịch vụ data/internet là hơn 4,6 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 17,53%. Nhằm đáp ứng nhu cầu tương lai, ước tính Nepal cần đầu tư khoảng 135 triệu USD mỗi năm vào lĩnh vực viễn thông. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2012, Nepal có 1.828.700 tài khoản Facebook.

, nhà nước vận hành hai đài truyền hình cũng như các đài phát thanh quốc gia và khu vực. Tồn tại khoảng 30 kênh truyền hình độc lập có đăng ký, song chỉ khoảng một nửa trong đó hoạt động định kỳ. Gần 400 đài phát thanh có giấy phép với khoảng 300 đài hoạt động. Năm 2013, [[Phóng viên không biên giới] xếp hạng Nepal đứng thứ 118 thế giới về tự do báo chí.

Giáo dục

Tỷ lệ biết chữ tổng thể (đối với người từ 5 tuổi trở lên 5) tăng từ 54,1% vào năm 2001 lên 65,9% vào năm 2011. Tỷ lệ biết chữ của nam giới là 75,1% còn của nữ giới là 57,4%. Tỷ lệ biết chữ cao nhất được ghi nhận tại huyện Kathmandu (86,3%) và thấp nhất tại huyện Rautahat (41,7%). tăng lên 90% vào năm 2009.

Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiếp cận giáo dục trung học (lớp 9-12) vẫn gặp thách thức lớn. Trên một nửa học sinh tiểu học không học lên trung học, và chỉ một nửa số còn lại tốt nghiệp trung học. Ngoài ra, số trẻ nữ vào trung học thấp hơn số trẻ nam, chênh lệch còn cao hơn nữa sau lớp 10.

Nepal có bảy đại học: Đại học Tribhuvan, Đại học Kathmandu, Đại học Pokhara, Đại học Purbanchal, Đại học Mahendra Sanskrit, Đại học Far-western, và Đại học Nông lâm. Có một số đại học được đề xuất như Đại học Phật giáo Lumbini, Đại học Mid-Western.

Y tế

thumb|right|Một bệnh viện tại khu vực Himalaya hẻo lánh Dịch vụ y tế tại Nepal được cung cấp từ cả khu vực công và tư. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, trên một phần ba (38,17%) tổng số hộ không có phòng vệ sinh.

Bệnh tật tại Nepal phổ biến hơn các quốc gia Nam Á khác, đặc biệt tại các khu vực nông thôn. Các bệnh hàng đầu là tiêu chảy và các bệnh tiêu hóa, bướu cổ, ký sinh trùng đường ruột, phong và lao. Khoảng 4 trong số 1.000 người thành niên từ 15 đến 49 tuổi có virus HIV, và tỷ lệ nhiễm HIV là 0,5%. Suy dinh dưỡng còn ở mức rất cao: Khoảng 47% trẻ em dưới 5 tuổi bị còi cọc, và 36% bị thiếu cân, dù tình hình được cải thiện trong những năm qua song vẫn đáng báo động. Tuy vậy, y tế có nhiều cải thiện, đáng chú ý nhất là trong chăm sóc bà mẹ-trẻ em, vào năm 2012 tỷ lệ tử vong trẻ dưới 5 tuổi là 4,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Nepal đạt 0,77 về y tế vào năm 2011, xếp 126 trong số 194 quốc gia, tăng so với 0,444 vào năm 1980.

Nhân khẩu

thumb|Nữ giới Nepal nhảy trong lễ hội [[Teej]] Dân số Nepal tăng từ 9 triệu vào năm 1950 lên 26,5 triệu vào năm 2011. Từ năm 2001 đến năm 2011, quy mô gia đình trung bình giảm từ 5,44 người xuống 4,9 người. Điều tra cũng ghi nhận khoảng 1,9 triệu người vắng mặt, hầu hết họ là lao động nam làm việc tại nước ngoài, chủ yếu là tại Nam Á và Trung Đông. Điều này khiến tỷ số giới tính sụt giảm còn 94,41 so với 99,80 vào năm 2001. Mức gia tăng dân số hàng năm là 1,35%. Chính phủ Nepal hạn chế người tị nạn Bhutan trong bảy trại tại các huyện Jhapa và Morang, và người tị nạn không được phép làm việc trong hầu hết các ngành nghề. Nepal có đền thờ Shiva nổi tiếng là đền Pashupatinath, là nơi tín đồ Ấn Độ giáo từ khắp thế giới đến hành hương. Theo thần thoại Ấn Độ giáo, nữ thần Sita trong sử thi Ramayana sinh tại Vương quốc Mithila của Quốc vương Janaka Raja. Lumbini là một thánh địa hành hương Phật giáo, và là một di sản thế giới UNESCO, nằm tại huyện Kapilavastu. Nơi đây theo truyền thống được cho là nơi sinh của Đức Phật vào năm 563 TCN, ông là một hoàng tử thuộc đẳng cấp Kshatriya của thị tộc Sakya. Toàn bộ ba nhánh của Phật giáo đều tồn tại trong Nepal và người Newar có nhánh tín ngưỡng Phật giáo riêng của mình. Phật giáo cũng là tôn giáo chi phối tại các khu vực miền bắc có dân cư thưa thớt, là nơi có các dân tộc có liên hệ với người Tạng như người Sherpa.thumb|[[Lumbini được cho là nơi sinh của Phật Thích Ca]]Khác biệt giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Phật giáo tại Nepal là rất ít do pha trộn về văn hoá và lịch sử của hai đức tin. Hơn nữa, Phật giáo và Ấn Độ giáo tại Nepal chưa từng là hai tôn giáo riêng biệt nếu xét theo quan điểm kiểu phương Tây. Tại Nepal, các tín ngưỡng chia sẻ chung các đền thờ và thờ cúng các vị thần chung. Trong số những dân tộc bản địa tại Nepal, các dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ Ấn Độ giáo là Magar, Sunwar, Limbu, Rai cùng Gurkhas. Lễ hội Machendrajatra của Ấn Độ giáo Shiva, song cũng được nhiều tín đồ Phật giáo tại Nepal cử hành với vị thế là một lễ hội lớn. Do người ta tin rằng Ne Muni thành lập Nepal, Hồi giáo là tôn giáo thiểu số tại Nepal, chiếm 4,2% dân số theo điều tra nhân khẩu năm 2006. Mundhum, Cơ Đốc giáo và Jaina giáo là các tín ngưỡng thiểu số khác.

Văn hóa

Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của xã hội Nepal. Các câu chuyện truyền thống có nguồn gốc từ thực tế trong sinh hoạt thường nhật, các truyện kể về tình yêu, tình cảm và chiến tranh cũng như ma quỷ và do đó phản ánh phương thức sinh hoạt, văn hóa và đức tin địa phương. Nhiều truyện dân gian Nepal được thuật lại bằng vũ đạo và âm nhạc.

thumb|Tổ hợp cung điện BasantpurHầu hết các nhà tại nông thôn vùng thấp của Nepal làm từ khung tre và vách làm từ hỗn hợp bùn và phân bò. Những căn nhà này mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông. Nhà ở tại vùng đồi thường làm bằng gạch không nung cùng mái tranh hoặc ngói. Tại vùng cao, nhà ở làm từ đá và có thể sử dụng đá bảng trên mái.

Quốc kỳ Nepal là quốc kỳ duy nhất không có hình chữ nhật. Nepal có 36 ngày lễ công cộng mỗi năm, đứng hàng đầu thế giới. Một năm theo lịch Nepal bắt đầu vào ngày đầu tiên của tháng Baisakh trong lịch Ấn Độ giáo chính thức của Nepal là Bikram Sambat, rơi vào giữa tháng 4 và một năm được chia thành 12 tháng. Thứ Bảy là ngày nghỉ lễ hàng tuần chính thức. Các ngày lễ chính hàng năm là ngày Liệt sĩ (18 tháng 2), và các lễ hội hỗn hợp Ấn Độ giáo và Phật giáo như Dashain vào mùa thu, Tihar vào giữa thu và Chhath vào cuối thu. Trong lễ hội Swanti, người Newars cữ hành lễ Mha Puja để kỷ niệm tết theo lịch Nepal Sambat. Do là một quốc gia thế tục, Nepal cũng có ngày nghỉ lễ vào các lễ hội chính của tôn giáo thiểu số. và được chơi lần đầu vào năm 1921. Sân vận động quốc tế duy nhất của Nepal là Sân vận động Dasarath Rangasala, cũng là sân nhà của đội tuyển quốc gia.Cricket được phổ biến trong thời gian gần đây, đội tuyển quốc gia Nepal thi đấu trên sân nhà tại Sân Cricket Quốc tế Đại học Tribhuvan.

Dù Nepal áp dụng hệ mét làm tiêu chuẩn chính thức từ năm 1968, song các đơn vị đo lường truyền thống vẫn còn phổ biến. Các đơn vị truyền thống về diện tích được áp dụng tại khu vực Terai– như katha hay bigha. – giống như tại những nơi khác của Nam Á. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đo lường diện tích của chúng lại khác nhau, như một katha tại Nepal tương đương 338,63 m², trong khi một katha tại Bangladesh tương đương khoảng 67 m². Ngoài các đơn vị bản địa, hệ đế quốc Anh liên quan đến chiều dài (cụ thể là inch và foot), và hệ mét như kg và lít cũng khá phổ biến trong giao thương hàng ngày.

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nepal** (phiên âm tiếng Việt: Nê-pan; ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal** ( ), là một quốc gia nội lục tại Nam Á. Dân số quốc gia Himalaya
Cuộc nội chiến Nepal là cuộc xung đột vũ trang giữa Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) (CPN-M) và chính phủ Nepal, chiến đấu từ năm 1996 đến năm 2006. Cuộc nổi dậy đã được đưa
**Đại dịch COVID-19** bắt đầu từ Hồ Bắc, Trung Quốc, vào cuối năm 2019, Nepal đã xác nhận trường hợp đầu tiên và duy nhất vào ngày 24 tháng 1 năm 2020. Bệnh nhân chỉ
**Vương quốc Nepal** (), cũng gọi là **Vương quốc Gorkha** () hay **Asal Hindustan** (_Miền đất thực sự của Hindus_), là là một vương quốc Hindu trên tiểu lục địa Ấn Độ, được hình thành
**Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Nepal** là một trong những quyền tiến bộ nhất ở châu Á. Hiến pháp Nepal công nhận quyền LGBT
**Quốc kỳ Nepal** () là lá cờ không phải hình chữ nhật duy nhất trên thế giới đóng vai trò vừa là cờ chính phủ vừa là cờ dân sự của một quốc gia có
**Tiếng Nepal** (नेपाली) là ngôn ngữ của người Nepal và là ngôn ngữ chính thức trên thực tế của Nepal. Tiếng Nepal là một thành viên của ngữ chi Ấ́n-Arya thuộc ngữ tộc Ấ́n-Iran của
**Birendra Bir Bikram Shah Dev** (tiếng Nepal: श्री ५ महाराजाधिराज वीरेन्द्र वीर विक्र म शाह देव), (28 tháng 12 năm 1945 – 1 tháng 6 năm 2001) là vị vua thứ 10 của Nepal, tại
**Tỉnh của Nepal** () được hình thành vào ngày 20 tháng 9 năm 2015 theo Phụ lục 4 của Hiến pháp Nepal. Bảy tỉnh được thành lập bằng cách nhóm các huyện hiện hữu. Hệ
**Quốc huy Nepal** được thay đổi sau khi Nội chiến Nepal kết thúc. Chính quyền Nepal ngày 28 tháng 5 năm 2008 đã thông qua biểu tượng mới được vẽ theo phong cách xã hội
**Quốc hội Liên bang Nepal** () là cơ quan lập pháp liên bang lưỡng viện của Nepal, được thành lập vào năm 2018, gồm Viện Dân biểu và Viện Quốc dân. ## Lịch sử ###
**Vua Nepal**, theo truyền thống được gọi là **Mahārājādhirāja** (), là nguyên thủ quốc gia và là vua của Nepal từ năm 1768 đến 2008. Ông từng là người đứng đầu nền quân chủ cũ
**Đảng Cộng sản Nepal (NCP)** là đảng chính trị cầm quyền ở Nepal và là đảng cộng sản lớn nhất ở Nam Á và lớn thứ ba ở châu Á. Nó được thành lập vào
thumb|Hai mặt của đồng xu mệnh giá 2 rupee Nepal **Rupee** () là đơn vị tiền tệ chính thức của Nepal. Mã ISO 4217 của đồng tiền này hiện là _NPR_ và thường được ký
**Giáo hội Công giáo ở Nepal** là một phần của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng ở Vatican. Tính đến năm 2011, có hơn 10.000 người
**Music Nepal** là một công ty sản xuất âm nhạc và phân phối ở Nepal. Music Nepal được thành lập vào năm 1982 dưới đạo luật Công nghiệp của Nepal. Music Nepal được thành lập
thumb|Dal-bhat-tarkari của Nepal thumb|Một đĩa Momo của Nepal **Ẩm thực Nepal** bao gồm nhiều loại thức ăn dựa trên sắc tộc, đất đai và khí hậu của Nepal liên quan đến sự đa dạng văn
**Hôn nhân cùng giới** được tạm thời công nhận ở toàn lãnh thổ Nepal từ ngày 27 tháng 4 năm 2024. Trong năm 2011 và 2012, khi đất nước đang trải qua quá trình chuyển
Vua **Gyanendra Bir Bikram Shah Dev** của Nepal (tiếng Nepal: ज्ञानेन्द्र वीर बिक्रम शाहदेव; Jñānendra Vīra Vikrama Śāhadeva) sinh ngày 7 tháng 7 năm 1947, là Vua Nepal kể từ ngày 4 tháng 7 năm
**Hiệp hội bóng đá toàn Nepal** (ANFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Nepal. ANFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Nepal, tổ chức các
**Động đất Nepal–Bihar 1934** nằm trong số các trận động đất nghiêm trọng nhất trong lịch sử Nepal và bang Bihar của Ấn Độ. Trận động đất có cường độ 8.0 Mw xảy ra vào
nhỏ|Các khu bảo tồn tại Nepal Nepal là vùng đất rộng lớn có diện tích 147.181 km2 (56.827 sq mi) chiếm phần trung tâm của dãy Himalaya giữa Khu vực sinh thái Palearctic và Indomalaya.
**Tây Nepal** (tiếng Nepal:पश्चिमाञ्चल विकास क्षेत्र) là một vùng phát triển của Nepal. Vùng này có diện tích 29.398 km², dân số thời điểm năm 2001 là 4.571.013 người. ## Dân số Biến động dân số
nhỏ|A330 của Nepal Airlines đang đậu bên ngoài nhà chứa máy bay của hãng **Nepal Airlines** là hãng hàng không quốc gia của Nepal. Trụ sở của hãng đóng ở tòa nhà NAC, thủ đô
**Nepal** đã tham gia 12 Thế vận hội Mùa hè, và 4 Thế vận hội Mùa đông. Tejbir Bura, một công dân Nepal, đã giành huy chương vàng leo núi Thế vận hội tại kỳ
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Nepal** () là đội tuyển cấp quốc gia của Nepal do Hiệp hội bóng đá toàn Nepal quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển
**Hút mật Nepal** hay **hút mật đuôi lục** (danh pháp hai phần: **_Aethopyga nipalensis_**) là một loài chim trong họ Hút mật (Nectariniidae). Loài này sinh sống trong khu vực bao gồm Bangladesh, Bhutan, Trung
**Viễn Tây Nepal** (tiếng Nepal:सुदुर पश्चिमाञ्चल विकास क्षेत्र) là một vùng phát triển của Nepal. Vùng này có diện tích 19.539 km², dân số thời điểm năm 2001 là 2.191.330 người. ## Dân số Biến động
**Đông Nepal** (tiếng Nepal:पूर्वाञ्चल विकास क्षेत्र) là một vùng phát triển của Nepal. Vùng này có diện tích 28.456 km², dân số thời điểm năm 2001 là 5.344.476 người. ## Dân số Biến động dân số
**Trung Tây Nepal** (tiếng Nepal:मध्य-पश्चिमाञ्चल विकास क्षेत्र) là một vùng phát triển của Nepal. Vùng này có diện tích 42.378 km², dân số thời điểm năm 2001 là 3.012.975 người. ## Dân số Biến động dân
**Trung Nepal** (tiếng Nepal:मध्यमाञ्चल विकास क्षेत्र) là một vùng phát triển của Nepal. Vùng này có diện tích 27.410 km², dân số thời điểm năm 2001 là 8.031.629 người. ## Dân số Biến động dân số
**Manang** (tiếng Nepal:मनाङ) là một huyện thuộc khu Gandaki, vùng Tây Nepal, Nepal. Huyện này có diện tích 2246 km², dân số thời điểm năm 2001 là 9587 người. ## Dân số Biến động dân số
**Lalitpur** (tiếng Nepal:ललितपुर) là một huyện thuộc khu Bagmati, vùng Trung Nepal, Nepal. Huyện này có diện tích 385 km², dân số thời điểm năm 2001 là 337785 người. ## Dân số Biến động dân số
**Bhojpur** (tiếng Nepal:भोजपुर) là một huyện thuộc khu Kosi, vùng Đông Nepal, Nepal. Huyện này có diện tích 1507 km², dân số thời điểm năm 2001 là 203018 người. ## Dân số Biến động dân số
**Vụ thảm sát hoàng gia Nepal** xảy ra vào ngày 1 tháng 6 năm 2001, tại một ngôi nhà nằm trong khuôn viên của Cung điện hoàng gia Narayanhity. Vụ án mạng được tường thuật
**Động đất Nepal 2023** () là trận động đất xảy ra vào lúc 23:47 (theo giờ địa phương), ngày 3 tháng 11 năm 2023. Trận động đất có cường độ 5,7 hoặc 6.4 richter, tâm
Nepal cho phép hầu hết mọi quốc gia xin thị thực tại cửa khẩu. Vào tháng 1 năm 2014 Nepal giới thiệu hệ thống thị thực trực tuyến. Tất cả du khách được cho phép
**Cách mạng nhân dân 1990** () là một phong trào của nhiều đảng phái ở Nepal đã chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế và khởi đầu cho chế độ quân chủ lập hiến.
**Sẻ hồng Nepal** (**_Carpodacus nipalensis_**) là một loài chim thuộc họ Fringillidae. Chúng được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Pakistan, Thái Lan, và Việt Nam. Môi trường sống tự
Đây là danh sách các trường hợp được cho là nhìn thấy UFO và hoạt động huyền bí ở Nepal. ## Vụ chứng kiến UFO ### 1968 * Ngày 25 tháng 3 năm 1968: Vào
**Lách tách Nepal** (tên khoa học **_Alcippe nipalensis_**) là một loài chim trong họ Leiothrichidae, nhưng trước đây từng được xép trong họ Timaliidae hay Pellorneidae. Loài này được Hodgson phân loại vào năm 1837.
**Dù dì Nepal** (tên khoa học: _Bubo nipalensis_) là một loài chim trong họ Strigidae. ## Hình ảnh Tập tin:BuboNipalensisSmit.jpg Tập tin:SpotbelliedEagleOwl.jpg
**Bandana Nepal** (sinh năm 2001) là một vũ công người Nepal. cô giữ kỷ lục Guinness cho "Cuộc thi nhảy marathon cho cá nhân dài nhất", cô đã nhảy liên tục trong 126 giờ. Bên
**HMAS _Nepal_ (G25/D14)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được hạ thủy năm 1941 như là chiếc _Norseman_,
Quyển sách Theo Chân Đạo Sư Đức Liên Hoa Sinh Ở Nepal trình bày những kỳ công phi thường ngoài sức tưởng tượng của Đạo Sư Padmasambhava ở Nepal, thuộc vùng đất Hy Mã Lạp
Theo Chân Đạo Sư Đức Liên Hoa Sinh Ở Nepal Tập 1 Quyển sáchTheo Chân Đạo Sư Đức Liên Hoa Sinh Ở Nepaltrình bày những kỳ công phi thường ngoài sức tưởng tượng của Đạo
[ CAM KẾT HÃNG CHUẨN ] ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO HOANG DÃ NEPAL HÀNG THƯỢNG HẠNG CHÍNH HÃNG♻️ ♻️ ♻️ GIỚI THIỆU SẢN PHẨM : 1. XUẤT XỨChất lượng và hiệu quả của Cordyceps sinensis
**Mount Everest Nepal** là một câu lạc bộ bóng đá Palau thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Palau, giải bóng đá cấp độ cao nhất ở Palau, lần đầu tiên trong
**Sikkim** (, tiếng Sikkim: སུ་ཁྱིམ་), hay **Xích Kim**, **Tích Kim** (錫金) là một bang nội lục của Ấn Độ. Bang nằm trên dãy Himalaya, có biên giới quốc tế với Nepal ở phía tây (giáp
Quang cảnh không gian núi Everest nhìn từ phương nam **Đỉnh Everest** (tên khác: **đỉnh Chomolungma**) nằm trong khối núi Mahalangur Himal thuộc dãy Himalaya, là đỉnh núi cao nhất trên Trái Đất so với