✨Brunei

Brunei

Brunei, quốc hiệu là Brunei Darussalam, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở bờ biển phía bắc của Borneo tại Đông Nam Á. Ngoại trừ dải bờ biển giáp biển Đông, quốc gia này hoàn toàn bị bang Sarawak của Malaysia bao quanh. Huyện Limbang của bang Sarawak phân chia Brunei thành hai phần. Đây là quốc gia có chủ quyền duy nhất nằm hoàn toàn trên Borneo, Malaysia và Indonesia phân chia phần lãnh thổ còn lại của đảo.

Lịch sử chính thức của quốc gia cho rằng Brunei có thể có bắt đầu từ thế kỷ VII, khi nó là một thuộc quốc tên là P'o-li của Đế quốc Srivijaya có trung tâm trên đảo Sumatra. Sau đó, nước này trở thành chư hầu của Đế quốc Majapahit có trung tâm trên đảo Java. Brunei trở thành một vương quốc hồi giáo vào thế kỷ thứ XIV, dưới quyền vị quốc vương (sultan) mới cải sang Hồi giáo là Muhammad Shah.

Vào thời kỳ đỉnh cao của Vương quốc Brunei, Sultan Bolkiah (trị vì 1485–1528) kiểm soát các khu vực phía bắc của đảo Borneo, bao gồm Sarawak và Sabah ngày nay, cũng như quần đảo Sulu ở ngoài khơi mũi đông bắc của Borneo, Seludong (Manila ngày nay), và các đảo ở ngoài khơi mũi tây bắc của Borneo. Đoàn thám hiểm Magellan của Tây Ban Nha viếng thăm quốc gia hàng hải này vào năm 1521, và Brunei chiến đấu chống lại Tây Ban Nha trong chiến tranh Castille vào năm 1578.

Vương quốc Brunei bắt đầu suy sụp; và đến thế kỷ XIX thì Sultan của Brunei nhượng lại Sarawak cho James Brooke để báo ơn người này vì công giúp đỡ dập tắt một cuộc nổi dậy và phong cho Brooke làm rajah; và nhượng lại Sabah cho Công ty Đặc hứa Bắc Borneo của Anh Quốc. Năm 1888, Brunei trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc và một Thống sứ Anh Quốc được bổ nhiệm trong vai trò người quản lý thuộc địa vào năm 1906. Sau khi bị Nhật Bản xâm chiếm trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một hiến pháp mới được thảo ra vào năm 1959. Năm 1962, một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chế độ quân chủ bị dập tắt với sự giúp đỡ của người Anh.

Brunei giành được độc lập từ Anh Quốc vào ngày 1 tháng 1 năm 1984. Quốc gia này trải qua quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong thập niên 1970 và 1990, đạt mức tăng trưởng bình quân 5.6%/năm trong giai đoạn từ 1999 đến 2008. Brunei hiện nay là một quốc gia công nghiệp mới. Quốc gia này trở nên thịnh vượng nhờ các mỏ dầu và khí đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn. Brunei có chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức rất cao, xếp thứ 2 trong số các quốc gia Đông Nam Á chỉ sau Singapore, đồng thời được phân loại là một nước phát triển. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Brunei xếp hạng 5 thế giới về thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương. IMF cũng ước tính rằng vào năm 2011, Brunei là một trong hai quốc gia có nợ công ở mức 0% trong quy mô GDP danh nghĩa. Tạp chí Forbes cũng xếp hạng Brunei là quốc gia giàu thứ 5 trên thế giới.

Tên gọi

Theo truyền thuyết, Brunei do Awang Alak Betatar thành lập. Ông đi từ Garang, một nơi tại huyện Temburong đến cửa sông Brunei, phát hiện ra Brunei. Theo truyền thuyết, trong lúc đổ bộ thì ông kêu lên Baru nah! ("chỗ đó"), tên gọi "Brunei" bắt nguồn từ đó.

Tên gọi được đổi thành Barunai vào thế kỷ XIV, có thể là do ảnh hưởng từ tiếng Phạn "" (), nghĩa là đại dương hay là "quan nhiếp chính của đại dương" thần thoại. Từ "borneo" cũng có cùng nguồn gốc. Tên đầy đủ của quốc gia, ', ' () nghĩa là "chốn hòa bình", trong khi __ nghĩa là "quốc gia" trong tiếng Mã Lai.

Lịch sử

Lịch sử ban đầu

thumb|left|Lăng mộ của [[Abdul Majid Hassan, quân chủ Bột Nê Quốc, tại Nam Kinh]] Do thiếu vắng các bằng chứng khác, các học giả thuyết minh lịch sử ban đầu của Brunei dựa trên việc diễn giải từ các bản văn Trung Quốc. Các tư liệu Trung Quốc từ thế kỷ thứ VI đề cập đến một quốc gia được gọi là P’o-li () trên vùng bờ biển tây bắc của đảo Borneo. Trong thế kỷ thứ VII, các ghi chép Trung Hoa và Ả Rập đề cập đến một địa điểm được gọi là Vijayapura (), được cho là do các thành viên vương thất Phù Nam thành lập. Họ được cho là đổ bộ lên bờ biển tây bắc của Borneo cùng một số tùy tùng của mình. Sau khi chiếm Bà Lợi, họ đổi tên lãnh thổ thành 'Vijayapura', nghĩa là 'chiến thắng' trong tiếng Phạn). Năm 977, các ghi chép Trung Hoa bắt đầu sử dụng thuật ngữ Po-ni () thay vì Vijayapura để đề cập đến Brunei.

Năm 1225, một viên quan của nhà Tống là Triệu Nhữ Quách (趙汝适) ghi lại trong Chư Phiên chí (諸蕃志) rằng Bột Nê Quốc có 100 chiến thuyền đề bảo vệ ngành mậu dịch của mình, và có nhiều vàng tại vương quốc. Một ghi chép vào năm 1280 mô tả rằng Bột Nê Quốc kiểm soát một diện tích lớn trên đảo Borneo.

Đến thế kỷ XIV, Bột Nê Quốc trở thành một nước chư hầu của Majapahit, mỗi năm phải nộp 40 cân long não. Năm 1369, người Sulu tấn công Bột Nê Quốc, cướp bóc châu báu vàng. Một hạm đội từ Majapahit thành công trong việc đánh đuổi người Sulu, song Bột Nê Quốc trở nên yếu kém hơn sau cuộc tấn công này. Một ghi chép của Trung Quốc vào năm 1371 mô tả Bột Nê Quốc nghèo nàn và hoàn toàn chịu kiểm soát của Majapahit.

Sức mạnh của Vương quốc Brunei lên đến đỉnh điểm từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, khi thế lực của nước này trải rộng từ bắc bộ Borneo đến Nam bộ Philippines. Đến thế kỷ XVI, Hồi giáo đã bén rễ vững chắc tại Brunei, và quốc gia đã xây dựng một trong những thánh đường Hồi giáo lớn nhất của mình. Năm 1578, một lữ khách người Tây Ban Nha tên là Alonso Beltrán mô tả nó cao năm tầng và được xây trên nước.

Chiến tranh với Tây Ban Nha

Thế lực của người châu Âu dần khiến cho một cường quốc khu vực đi đến hồi kết, Brunei bước vào một thời kỳ suy yếu kết hợp với xung đột nội bộ do xung đột kế vị trong vương thất. Nạn hải tặc cũng gây thiệt hại cho vương quốc.

Vào tháng 3 năm 1578, hạm đội Tây Ban Nha bắt đầu đi từ Manila đến Brunei dưới sự lãnh đạo của Đề đốc De Sande. Đội quân viễn chinh gồm có 400 người Tây Ban Nha, 1.500 người Philippines bản địa và 300 người Borneo. Người Tây Ban Nha xâm chiếm kinh đô vào ngày 16 tháng 4 năm 1578, với sự giúp đỡ của Pengiran Seri Lela và Pengiran Seri Ratna. Sultan Saiful Rijal và Paduka Seri Begawan Sultan Abdul Kahar buộc phải chạy đến Meragang rồi Jerudong. Tại Jerudong, họ lên các kế hoạch nhằm đuổi quân xâm lăng ra khỏi Brunei. Quân của Tây Ban Nha chịu cảnh tử vong cao do bùng phát dịch tả hoặc lỵ, rồi quyết định từ bỏ Brunei và trở về Manila vào ngày 26 tháng 6 năm 1578, sau 72 ngày. Trước khi rút đi, họ đốt thánh đường Hồi giáo-một cấu trúc có năm tầng mái.

Các tường thuật bản địa tại Brunei

Nội chiến

Trong thời gian trị vì của Sultan Muhammad Ali (1660-1661), có một bất đồng giữa con trai của Sultan là Pengiran Muda ("Vương tử") Bongsu và Pengiran Muda Alam- con trai của Pengiran Abdul Mubin về kết quả của một trận đá gà mà Pengiran Muda Bungsu thua. Pengiran Muda Alam chế nhạo Vương tử về việc thua cuộc. Vương tử Bongsu nổi cơn thịnh nộ và sát hại Pengiran Muda Alam rồi chạy trốn khỏi hiện trường.

Abdul Mubin cùng bộ hạ sát hại Sultan Muhammad Ali nhằm báo thù, Abdul Momin sau đó tự lập mình làm Sultan và chọn hiệu "Sultan Hakkul Abdul Mubin". Trong Nội chiến, Sultan Abdul Hakkul Mubin chạy đến Kinarut, ông ở đó trong 10 năm, đẩy lui các cuộc tiến công liên tiếp của Sultan Muhyiddin.

Trong thập niên 1880, Vương quốc Brunei tiếp tục suy yếu, Sultan trao vùng đất mà nay là Sarawak cho James Brooke vì có công giúp ông đàn áp một cuộc nổi dậy và cho phép James Brooke thành lập Vương quốc Sarawak. Theo thời gian, Brooke và các cháu trai của người này thuê hoặc sáp nhập thêm nhiều đất đai. Brunei mất đi phần lớn lãnh thổ của mình cho Vương quốc Sarawak.

Sultan Hashim Jalilul Alam Aqamaddin thỉnh cầu người Anh giúp ngăn chặn nhà Brooke xâm lấn hơn nữa. "Hiệp định Bảo hộ" do Hugh Low dàn xếp và được ký có hiệu lực vào ngày 17 tháng 12 năm 1888. Hiệp định ghi rằng Sultan "không thể nhượng hay cho thuê bất kỳ lãnh thổ nào cho thế lực ngoại bang mà không có sự tán thành của Anh Quốc"; cho phép Anh Quốc kiểm soát thực sự công việc đối ngoại của Brunei, biến Brunei thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc.

Các thống sứ Anh Quốc được đưa đến Brunei theo Thỏa thuận Bảo hộ Bổ sung vào năm 1906. Các thống sứ tham mưu cho Sultan trên tất cả các vấn đề quản lý. Theo thời gian, Thống sứ nắm giữ nhiều quyền hành chính hơn là Sultan. Hệ thống thống sứ kết thúc vào năm 1959.

Phát hiện ra dầu

Dầu được phát hiện vào năm 1929 sau một số nỗ lực không có kết quả. Hai người là F.F. Marriot và T.G. Cochrane phát hiện ra dầu gần sông Seria vào cuối năm 1926. Họ thông báo sự việc cho một nhà địa vật lý học, người này chỉ đạo một cuộc nghiên cứu tại đó. Năm 1927, khí rỉ ra được ghi nhận trong khu vực. Giếng Seria số 1 (S-1) được khoan vào ngày 12 tháng 7 năm 1928. Giếng Seria số 2 được khoan vào ngày 19 tháng 8 năm 1929, và vẫn tiếp tục cho sản phẩm tính đến năm 2009. Sản lượng dầu tăng lên đáng kể vào những năm 1930 cùng với sự phát triển của thêm nhiều mỏ dầu. Năm 1940, sản lượng dầu là hơn 6 triệu thùng. Giếng dầu ngoài khơi đầu tiên được khoan vào năm 1957. Dầu và khí đốt thiên nhiên là nền tảng cho sự phát triển và thịnh vượng của Brunei kể từ cuối thế kỷ XX.

Nhật Bản chiếm đóng

Tám ngày sau khi tiến công Trân Châu Cảng, đến ngày 16 tháng 12 năm 1941 thì người Nhật xâm chiếm Brunei. 10.000 quân của Phân đội Kawaguchi từ vịnh Cam Ranh tiến vào Kuala Belait. Sau sáu ngày giao tranh, họ chiếm đóng toàn bộ quốc gia. Lực lượng duy nhất của Đồng Minh trong khu vực là Tiểu đoàn số 2 của Trung đoàn Punjab số 15 đóng tại Kuching, Sarawak.

Khi chiếm được Brunei, người Nhật tiến hành một thỏa thuận với Sultan Ahmad Tajuddin về việc cai quản quốc gia. Nguyên Thư ký của Thống sứ Anh Quốc Ernest Edgar Pengilly là Inche Ibrahim được bổ nhiệm là Trưởng quan hành chính dưới quyền Thống sứ Nhật Bản. Pengilly và những người dân tộc Anh khác vẫn ở lại Brunei bị người Nhật giam giữ tại trại Batu Lintang ở Sarawak.

Sultan duy trì ngôi vị của mình và nhận được trợ cấp cùng sự tôn kính của người Nhật. Trong giai đoạn sau của thời kỳ chiếm đóng, ông ở tại Tantuya, Limbang và có ít việc để làm với người Nhật. Chính phủ Brunei được tái tổ chức thành 5 tỉnh, bao gồm Bắc Borneo thuộc Anh. Các tỉnh bao gồm Baram, Labuan, Lawas, và Limbang.

Người Anh dự đoán được về một cuộc tiến công của người Nhật, song họ thiếu các nguồn lực để phòng thủ khu vực do đang phải giao chiến ở châu Âu. Binh sĩ từ Trung đoàn Punjab đổ bê tông vào các giếng dầu vào tháng 9 năm 1941 để ngăn người Nhật sử dụng chúng. Các thiết bị và máy móc còn lại bị phá hủy khi Nhật Bản xâm chiếm Malaya. Đến cuối chiến tranh, 16 giếng dầu ở Miri và Seria được tái khởi đầu, sản lượng đạt khoảng một nửa so với mức trước chiến tranh. Sản xuất than tại Muara cũng được khôi phục, song thành công với mức độ khiêm tốn.

Trong thời gian chiếm đóng, người Nhật dạy ngôn ngữ của họ trong các trường học, các viên chức chính quyền được yêu cầu học tiếng Nhật. Đồng nội tệ được thay thế bằng duit pisang (tiền chuối). Từ năm 1943, siêu lạm phát làm mất giá trị tiền tệ, và đến cuối chiến tranh thì loại tiền này không còn giá trị. Các cuộc tiến công vào thương thuyền khiến cho hoạt động mậu dịch phải ngưng lại. Thực phẩm và dược phẩm rơi vào cảnh thiếu hụt, người dân phải chịu cảnh đói và bệnh tật.

Ngày 10 tháng 6 năm 1945, Sư đoàn số 9 của Úc đổ bộ lên Muara trong Chiến dịch Oboe Six nhằm tái chiếm Borneo từ Nhật Bản. Họ nhận được hỗ trợ từ các đơn vị không quân và hải quân của Hoa Kỳ. Đô thị Brunei bị ném bom trên phạm vi rộng và bị Đồng Minh tái chiếm sau ba ngày quyết chiến. Nhiều tòa nhà bị phá hủy, bao gồm cả Thánh đường Hồi giáo. Quân Nhật tại Brunei, Bắc Borneo, và Sarawak, dưới quyền Trung tướng Masao Baba, chính thức đầu hàng tại Labuan vào ngày 10 tháng 9 năm 1945. Chính quyền quân sự Anh Quốc tiếp quản lãnh thổ từ tay người Nhật Bản và duy trì cho đến tháng 7 năm 1946.

Sau Thế Chiến II

Sau Thế Chiến II, một chính phủ mới được hình thành tại Brunei dưới quyền Chính phủ quân sự Anh Quốc (BMA), chủ yếu gồm các viên chức và nhân viên người Úc. Việc quản lý Brunei được chuyển cho Chính phủ dân sự vào ngày 6 tháng 7 năm 1946. Hội đồng Quốc gia Brunei cũng được phục hồi vào năm này. BMA được giao nhiệm vụ khôi phục kinh tế của Brunei, phải dập tắt các đám cháy trên các giếng dầu ở Seria do người Nhật phóng hỏa trước khi bị đánh bại. Cao ủy Anh Quốc đầu tiên của Brunei là Thống đốc Sarawak, Charles Ardon Clarke. Barisan Pemuda ("Phong trào Thanh niên") là chính đảng đầu tiên được thành lập tại Brunei, vào ngày 12 tháng 4 năm 1946. Mục đích của đảng là "Bảo tồn chủ quyền của Sultan và quốc gia, và để bảo vệ quyền của người Mã Lai". Đảng bị giải thể vào năm 1948 do hoạt động kém.

Năm 1959, một bản hiến pháp mới được thảo ra, tuyên bố Brunei là một quốc gia tự trị, trong khi các vấn đề đối ngoại, an ninh và quốc phòng vẫn là trách nhiệm của Anh Quốc.

Ngày 14 tháng 11 năm 1971, Sultan Hassanal Bolkiah đến Luân Đôn để thảo luận về các vấn đề liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959. Một thỏa thuận mới được ký kết vào ngày 23 tháng 11 năm 1971 với đại diện của Anh Quốc là Anthony Henry Fanshawe Royle, theo đó Anh Quốc vẫn nắm giữ công việc đối ngoại và quốc phòng. Ngày 7 tháng 1 năm 1979, một hiệp định khác được ký kết giữa Brunei và Anh Quốc, đại diện cho Anh Quốc là Chúa công Goronwy-Roberts. Hiệp định này trao cho Brunei tiếp quản trách nhiệm quốc tế như một quốc gia độc lập. Anh Quốc chấp thuận giúp đỡ Brunei trên các vấn đề ngoại giao. Vào tháng 5 năm 1983, Anh Quốc tuyên bố Brunei sẽ độc lập từ ngày 1 tháng 1 năm 1984. Lúc nửa đêm ngày 1 tháng 1 năm 1984, Sultan Hassanal Bolkiah đọc bản Tuyên ngôn độc lập.

Địa lý

Brunei là một quốc gia Đông Nam Á gồm hai phần tách rời với tổng diện tích là trên đảo Borneo. Quốc gia có bờ biển giáp biển Đông, và có 381 km (237 mi) biên giới với Malaysia. Quốc gia có lãnh hải, và vùng đặc quyền kinh tế.

Hầu hết lãnh thổ Brunei nằm trong vùng sinh thái rừng mưa đất thấp Borneo. Các khu vực rừng mưa vùng núi nằm ở vùng nội địa của quốc gia.

Brunei có khí hậu nhiệt đới xích đạo.

Chính trị và chính phủ

thumb|Sultan [[Hassanal Bolkiah của Brunei.]]

Hệ thống chính trị tại quốc gia do hiến pháp và truyền thống Quân chủ Mã Lai Hồi giáo chi phối. Ba thành phần của Quân chủ Hồi giáo Mã Lai, Melayu Islam Beraja (MIB), là văn hóa Mã Lai, Hồi giáo, và khuôn khổ chính trị dưới quyền quân chủ. Gia đình vương thất vẫn được tôn kính trong quốc gia.

Về mặt chính thức, chính sách đối ngoại của Brunei là: Tôn trọng lẫn nhau đối với chủ quyền lãnh thổ, tính toàn vẹn và độc lập của các đối tác khác Duy trì các mối quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia. Không can thiệp vào các công việc nội bộ của những quốc gia khác Duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.

Brunei có mối quan hệ truyền thống với Anh Quốc, và trở thành thành viên thứ 49 của khối Thịnh vượng chung ngay vào ngày độc lập 1 tháng 1 năm 1984. Nhằm khởi đầu cho việc cải thiện các mối quan hệ cấp khu vực, Brunei gia nhập ASEAN vào ngày 8 tháng 1 năm 1984, trở thành thành viên thứ sáu của Hiệp hội. Đến năm 1984, nhằm đạt được sự công nhận về chủ quyền và nền độc lập của mình, Brunei trở thành thành viên đầy đủ của Liên Hợp Quốc vào ngày 21 tháng 9

Là một quốc gia Hồi giáo, Brunei trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (nay là Tổ chức Hợp tác Hồi giáo) vào tháng 1 năm 1984 trong Hội nghị Thượng đỉnh Hồi giáo lần thứ tư tổ chức tại Maroc.

Sau khi tham gia vào Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1989, Brunei tổ chức Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC vào tháng 11 năm 2000 và Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vào tháng 7 năm 2002. Brunei trở thành một thành viên sáng lập của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 1 tháng 1 năm 1995, và là một thành viên chính của Khu vực Tăng trưởng Đông ASEAN (BIMP-EAGA)- được hình thành tại Davao, Philippines vào ngày 24 tháng 3 năm 1994.

Brunei chia sẻ mối quan hệ chặt chẽ với Philippines và Singapore. Vào tháng 4 năm 2009, Brunei và Philippines ký kết Biên bản Ghi nhớ (MOU) nhằm cố gắng tăng cướng quan hệ song phương giữa hai quốc gia trong các lĩnh vực nông nghiệp cùng mậu dịch và đầu tư liên quan đến trồng trọt.

Brunei là một trong nhiều bên tham gia vào tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa. Vấn đề được tường trình là đã giải quyết xong vào năm 2009, theo đó Brunei đồng ý chấp thuận biên giới để đổi lấy việc Malaysia từ bỏ yêu sách đối với các mỏ dầu trên vùng biển của Brunei. Chính phủ Brunei phủ nhận điều này và nói rằng không bao giờ từ bỏ tuyên bố chủ quyền của họ đối với Limbang.

Phân cấp hành chính

Brunei được chia thành bốn huyện (daerah) và 38 phó huyện (mukim). Sản xuất dầu thô và khí thiên nhiên đóng góp khoảng 90% cho GDP của quốc gia. và trợ cấp gạo cùng nhà ở. ô tô và sản phẩm điện tử từ các quốc gia khác. Hàng nhập khẩu đáp ứng 60% nhu cầu lương thực của Brunei, trong đó có khoảng 75% đến từ các quốc gia ASEAN. là hãng vận chuyển quốc gia. Ngoài ra, Brunei còn có sân bay Anduki tại Seria. Bến phà ở Muara phục vụ các chuyến phà thường lệ đến Labuan (Malaysia). Các tàu cao tốc vận chuyển hành khách và hàng hóa đến huyện Temburong. Xa lộ chính chạy qua Brunei là Xa lộ Tutong-Muara. Hệ thống đường bộ của quốc gia phát triển tốt. Brunei có một cảng biển lớn nằm tại Muara.

Nhân khẩu

thumb|[[Thánh đường Sultan Omar Ali Saifuddin vào ban đêm.]]

Năm 2018, dân số của Brunei là người. 76% dân số sinh sống tại các khu vực thành thị. Từ năm 2010 đến năm 2015, tốc độ đô thị hóa ước tính là 2,13% mỗi năm. Tuổi thọ trung bình của Brunei là 77,7 tuổi.

Dân tộc

Năm 2014, 65,7% dân số là người Mã Lai, 10,3% là người gốc Hoa, 3,4% là người bản địa và 20,6% thuộc những dân tộc khác.

Ngôn ngữ chính thức của Brunei là tiếng Mã Lai. Bộ Văn hóa, Thanh niên và Thể thao khuyến khích một phong trào ngôn ngữ nhằm mục đích nâng cao việc sử dụng ngôn ngữ này tại Brunei. Khẩu ngữ chính tại Brunei là tiếng Mã Lai Brunei, tiếng Mã Lai Brunei khá khác so với tiếng Mã Lai tiêu chuẩn và các phương ngữ khác của tiếng Mã Lai, và tương tự ở mức khoảng 84% với tiếng Mã Lai tiêu chuẩn, và thường là không hiểu lẫn nhau. Tiếng Anh và tiếng Trung Quốc cũng được nói rộng rãi, tiếng Anh cũng được sử dụng trong kinh doanh với địa vị là ngôn ngữ làm việc, và là ngôn ngữ giảng dạy từ bậc tiểu học đến bậc đại học, và được một cộng đồng ngoại quốc tha hương tương đối lớn sử dụng. Các khẩu ngữ khác là Kedayan, Tutong, Murut, Dusun và Iban.

Y tế

Do trong nước không có sẵn hỗ trợ về y tế, các công dân được đưa ra hải ngoại bằng kinh phí của chính phủ. Trong giai đoạn 2011–12, 327 bệnh nhân được điều trị tại Malaysia và Singapore với chi phí 12 triệu đô la do chính quyền chi trả. Bệnh viện lớn nhất tại Brunei là Bệnh viện Raja Isteri Pengiran Anak Saleha (RIPAS) với 538 giường bệnh, và Jerudong Park.

Văn hóa

thumb|right|Bảo tàng vương thất Regalia

Nền văn hóa Brunei chủ yếu là văn hóa Mã Lai, với các ảnh hưởng lớn từ Hồi giáo, và được nhìn nhận là bảo thủ hơn so với Indonesia và Malaysia. Các nền văn hóa Mã Lai từ quần đảo Mã Lai ảnh hưởng đến văn hóa Brunei. Bốn giai đoạn ảnh hưởng về văn hóa đã diễn ra trong lịch sử Brunei, lần lượt là thuyết vật linh, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, văn minh phương Tây. Hồi giáo có ảnh hưởng rất mạnh, trở thành hệ tư tưởng và triết lý của Brunei.

Brunei là một quốc gia thi hành luật Sharia, theo đó cấm việc bán và tiêu thụ đồ uống có cồn công khai. Những người không theo Hồi giáo được phép đem một lượng đồ uống có cồn hạn chế từ bên ngoài vào để tự sử dụng. Chính phủ cho phép một công ty in ấn và xuất bản là Brunei Press PLC hoạt động, công ty thành lập từ năm 1953. Công ty tiếp tục xuất bản nhật báo tiếng Anh Borneo Bulletin, tờ báo này lúc đầu chỉ là một bài luận cộng đồng hàng tuần và trở thành nhật báo vào năm 1990 Ngoài Borneo Bulletin, Brunei còn có các nhật báo tiếng Mã Lai là Media PermataPelita Brunei. The Brunei Times là một tờ báo độc lập khác bằng tiếng Anh, được xuất bản tại Brunei kể từ năm 2006.

Chính phủ Brunei sở hữu và điều hành sáu kênh truyền hình kỹ thuật số sử dụng công nghệ DVB-T (RTB 1, RTB 2, RTB 3 (HD), RTB 4, RTB 5 và RTB New Media (thông tin thể thao) và năm kênh phát thanh là (FM quốc gia, Pilihan FM, Nur Islam FM, Harmony FM và Pelangi FM). Một công ty tư nhân có kênh truyền hình cáp (Astro-Kristal) và kênh phát thanh Kristal FM.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Brunei**, quốc hiệu là **Brunei Darussalam**, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở bờ biển phía bắc của Borneo tại Đông Nam Á. Ngoại trừ dải bờ biển giáp biển Đông, quốc gia
## Thời kỳ đầu Không có nhiều nghiên cứu về thời tiền sử của Brunei, một số thư tịch cổ Trung Hoa có ghi chép từ thế kỷ 6 đã có sự giao thương qua
**Quân đội Brunei** hay tên đầy đủ là **Quân đội Hoàng gia Brunei** (_Angkatan Bersenjata Diraja Brunei_) được thành lập ngày 21 tháng 5 năm 1961 với tên gọi Askar Melayu Brunei (Trung đoàn Brunei).Từ
**Đế quốc Brunei** (, Jawi và ('Iimbraturiat Brunay)), là một Hồi quốc Mã Lai tập trung ở Brunei trên bờ biển phía bắc đảo Borneo tại Đông Nam Á. Vương quốc được thành lập vào
**Hải quân Hoàng gia Brunei** là một lực lượng hải quân thuộc Quân đội Brunei. Đây là một lực lượng nhỏ nhưng trang bị tương đối đầy đủ, có trách nhiệm chính là tiến hành
**Royal Brunei Airlines** (tiếng Mã Lai: Penerbangan DiRaja Brunei, Jawi: ﻓﻧﺭﺑﺎڠن ﺩﻴﺮﺍﺝ ﺑﺮﻮﻧﻲ), hay RBA, là hãng hàng không duy nhất của Brunei. Hãng này thuộc sở hữu 100% của chính phủ Brunei và là
**Hội đồng Lập pháp Brunei** (Tiếng Mã Lai: _Majlis Mesyuarat Negara Brunei (مجليس مشوارت نڬارا بروني)_) là một cơ quan lập pháp đơn viện của Brunei. Hội đồng thường tổ chức cuộc họp hàng năm
**Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Brunei** phải đối mặt với những thách thức pháp lý mà những người không phải LGBT không gặp phải. Đồng tính luyến
**Chính trị Brunei** được tổ chức theo cơ cấu quân chủ chuyên chế, Sultan của Brunei là nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ (thủ tướng Brunei). Quyền hành pháp do Chính phủ
Mối quan hệ giữa Brunei và Hoa Kỳ bắt đầu từ thế kỷ 19. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1845 ,**USS _Constitutio_**_n_ đã đến Brunei.,Hai nước đã ký kết Hiệp ước Hòa bình.Hoa Kỳ
**Thủ tướng Brunei** () là người đứng đầu chính phủ của Brunei. Chức vụ do Sultan của Brunei nắm giữ đồng thời là nguyên thủ quốc gia. Chức vụ được thành lập khi Brunei tuyên
phải|nhỏ|Công dân và nạn nhân nước ngoài bị buôn bán tình dục ra vào các [[quận của Brunei. Họ bị hãm hiếp và bị tổn hại về thể chất và tâm lý tại các địa
**Brunei Super League** (giải bóng đá vô địch quốc gia Brunei) hay **DST Super League** (theo tên nhà tài trợ), là giải bóng đá chuyên nghiệp đỉnh cao của hệ thống giải đấu bóng đá
**Sultan của Brunei** là nguyên thủ quốc gia và quân chủ chuyên chế của Brunei. Ông cũng là người đứng đầu chính phủ với tư cách là Thủ tướng. Kể từ khi giành lại độc
**Brunei** lần đầu tham gia **Thế vận hội** năm 1988, với một quan chức duy nhất và không có vận động viên (VĐV). Brunei quay trở lại sân chơi Olympic tại Thế vận hội Mùa
**Sân bay quốc tế Brunei** (Malay (Roman Script): Lapangan Terbang Antarabangsa Brunei; (chữ Jawi): برني) là sân bay đầu tiên của Brunei. Vận tải hàng không thương mại ở Brunei bắt đầu từ năm 1953
**Vịnh Brunei** () thuộc bờ biển phía tây bắc đảo Borneo, nằm ở Brunei và Malaysia. Vịnh Brunei nằm ở tọa độ 5°00'43.44", 115°17'26.66"; phía đông Bandar Seri Begawan, Brunei. Đây là lối mở ra
thumbnail|Dấu nhập cảnh Brunei Chính phủ của **Brunei Darussalam** cho phép công dân của một số quốc gia và vùng lãnh thổ nhất định đến Brunei để du lịch hoặc công tác lên đến 90,
**Quan hệ Brunei – Việt Nam** đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Vương quốc Brunei Darussalam và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hai nước chính thức thiết lập quan
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Brunei** () là đội tuyển cấp quốc gia của Brunei do Hiệp hội bóng đá Brunei quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Brunei
**Đô la Brunei** (mã tiền tệ: _BND_) là đơn vị tiền tệ của Brunei từ năm 1967. Nó thường được viết tắt theo ký hiệu đồng đô la là $, hoặc được viết B$ để
**Đội tuyển Davis Cup Brunei** đại diện Brunei ở giải đấu quần vợt Davis Cup và được quản lý bởi Liên đoàn quần vợt Brunei. Đội chưa thi đấu kể từ năm 2008. Thành tích
**Đội tuyển Fed Cup Brunei** đại diện Brunei ở giải đấu quần vợt Fed Cup và được quản lý bởi Hiệp hội Quần vợt Brunei. Đội chưa thi đấu kể từ năm 1996. ## Lịch
**Hiệp hội bóng đá Brunei Darussalam** ( - **FABD**, ) là tổ chức quản lý các hoạt động bóng đá ở Brunei. Đây là tổ chức kế nhiệm của Hiệp hội bóng đá Brunei đã
**Hiệp hội bóng đá Brunei** (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Brunei đến năm 2008. ## Lệnh cấm FIFA 2009 Tháng 9 năm 2009 hiệp hội
**Dân tộc Hoa tại Brunei** chiếm gần 15% dân số Brunei. Năm 1986, ước tính trên 90% người Hoa vẫn chưa có quyền công dân Brunei mặc dù đã cư trú nhiều thế hệ tại
**Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Brunei** (, cũng biết gọi là **U-23 Brunei**, hoặc **Đội tuyển Olympic Brunei**) đại diện cho Brunei trong các giải thi đấu bóng đá quốc tế tại Thế
**Nội chiến Brunei** là một cuộc nội chiến nổ ra ở Brunei từ năm 1660 đến năm 1673. ## Nguyên nhân Trong thời gian trị vì của Sultan Muhammad Ali (1660-1661), có một bất đồng
Brunei là nước sản xuất dầu mỏ lớn thứ 3 ở Đông Nam Á với trung bình 180.000 thùng (29.000 m³) mỗi ngày. Quốc gia này cũng là nhà sản xuất khí hóa lỏng lớn
**Cuộc bạo động Brunei** diễn ra vào ngày 8 tháng 12 năm 1962, do Yassin Affandi lãnh đạo, khiến vua Brunei là Omar Ali Saifuddin III phải chạy sang nước láng giềng Malaysia và kêu
Đây là danh sách các sân bay hoạt động tại **Brunei**: ## Các sân bay
**Nội các Brunei** là cơ quan hành pháp của Quốc gia Brunei. Tính đến ngày 22 tháng 10 năm 2015, Nội các chính quyền Brunei Darussalam bao gồm: ## Bộ trưởng ## Thứ trưởng ##
**Brunei** sẽ tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007 tại thành phố Nakhon Ratchasima, Thái Lan từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 12 năm 2007. ## Thành tích ### Bảng huy
Đơn vị hành chính cao nhất của Vương quốc Brunei là quận (daerah): |}
**Đài Phát thanh Truyền hình Brunei** (tiếng Mã Lai: Radio Televisyen Brunei, tên viết tắt là **RTB**) là đài truyền hình quốc gia của Brunei. Đài phát thanh Brunei phát sóng lần đầu tiên vào
**Quốc kỳ Brunei** () có dạng hình chữ nhật với quốc huy Brunei màu đỏ ở giữa, trên nền màu vàng, bị cắt ngang bởi hai sọc màu đen, trắng. Năm 1906, khi còn là
**Công an Hoàng gia Brunei** () là lực lượng công an của Brunei. Lực lượng này là một trong 190 thành viên của Interpol, một tổ chức liên chính phủ trên toàn thế giới kể
**Chuyến bay 238 của Royal Brunei Airlines** là chuyến bay theo lịch trình từ Labuan đến Bandar Seri Begawan và Miri, do Merpati Intan thay mặt cho Royal Brunei Airlines khai thác. Vào ngày 6
Bài viết này ghi lại các tác động của đại dịch COVID-19 ở Brunei, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính hiện đại. ## Dòng thời gian
**Brunei** tham gia tranh tài tại **Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021** ở Hà Nội, Việt Nam từ ngày 12 đến 23 tháng 5 năm 2022. Đoàn thể thao Brunei gồm có 23
**_Tryonia brunei_** là một loài ốc nước ngọt rất nhỏ có mang và vảy ốc, là động vật thân mềm chân bụng sống trong nước thuộc họ Hydrobiidae. Đây là loài đặc hữu của Hoa
**_Werauhia brunei_** là một loài thuộc chi _Werauhia_. Đây là loài đặc hữu của Costa Rica.
**_Antheraea brunei_** là một loài bướm đêm thuộc họ Saturniidae. Nó được tìm thấy ở Borneo và Palawan.
**_Sphaeropteris brunei_** là một loài thực vật có mạch trong họ Cyatheaceae. Loài này được (H. Christ) R.M. Tryon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1970.
**_Vriesea brunei_** là một loài thực vật có hoa trong họ Bromeliaceae. Loài này được Mez & Wercklé miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904.
**_Diplopterygium brunei_** là một loài dương xỉ trong họ Gleicheniaceae. Loài này được Christ Nakai mô tả khoa học đầu tiên năm 1950.
**_Solanopteris brunei_** là một loài thực vật có mạch trong họ Polypodiaceae. Loài này được (Wercklé ex H. Christ) W.H. Wagner miêu tả khoa học đầu tiên năm 1972.
Kế vị ngai vàng của Brunei theo quy định là hậu duệ nam giới hợp pháp của Quốc vương Hashim Jalilul Alam Aqamaddin. Con trai của những người vợ hoàng gia được ưu tiên hơn
**Hassanal Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah** (Jawi: حسن البلقية ابن عمر علي سيف الدين ٣; sinh 15 tháng 7 năm 1946) là đương kim Sultan, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính