nhỏ|Ông Lê Hoằng Mưu
Lê Hoằng Mưu (1879-1941) có sách ghi là Lê Hoàng Mưu, bút hiệu Mộng Huê Lầu (đảo các mẫu tự họ tên); là nhà văn, nhà báo Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 20.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh năm Kỷ Mão (1879) trong một gia đình làm nông khá giả tại làng Cái Cối, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre (nay xã Mỹ Thạnh An, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre).
Cha ông là Lê Văn Dinh, nguyên là thông ngôn ở Đề hình. Ban đầu, ông học ở Bến Tre, sau học ở Sài Gòn, rồi gia nhập làng văn, làng báo ở Sài Gòn cho đến cuối đời.
Ông nổi tiếng trong làng báo Sài Gòn từ những năm 1910-1915, và là một trong số các cây bút tiểu thuyết thuộc giai đoạn phôi thai ở Nam Kỳ. Năm 1921, khi tờ Nam Trung nhật báo sáp nhập với tờ Lục tỉnh tân văn, ông được cử làm Chủ bút cho đến 1930, thì bị buộc thôi chức vì tờ báo có khuynh hướng yêu nước bài Pháp. Cùng năm này, ông cùng Võ Thành Út sáng lập tờ Long Giang độc lập (xuất bản mỗi tuần 3 số) do Lưu Công Châu làm chủ bút. Đến năm 1931, tờ báo bị nhà cầm quyền ra lệnh đình bản một thời gian, sau được tục bản cho đến ngày 11 tháng 5 năm 1934 thì bị đình bản hẳn. Ngoài ra, ông là trợ bút của các tờ Điện Tín, Thần chung, Đuốc nhà Nam...
Năm Tân Tỵ (1941), ông mất tại Sài Gòn, thọ 62 tuổi.
Tác phẩm
Các tác phẩm của Lê Hoằng Mưu dưới đây, phần lớn đều đã được đăng tải nhiều kỳ trên các báo, trước khi in thành sách.
*Hà Hương phong nguyệt (tiểu thuyết đầu tay, đăng trên báo Nông cổ mín đàm từ ngày 20 tháng 7 năm 1912 với nhan đề Truyện nàng Hà Hương, đến năm 1914 được nhà in Saigonnaise L. Royer xuất bản thành 6 quyển với tên là Hà Hương phong nguyệt*).
Ba gái cầu chồng** (đăng báo năm 1915)
*Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920)
- Oán hồng quần hay Phùng Kim Huê ngoại sử (6 quyển, nhà in L’ Union, 1920)
*Oan kia theo mãi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật* (nhà in J. Viết, Sài Gòn, 1922)
Đầu tóc mượn (nhà in L’ Union, 1926)
Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển, nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn 1929),
Truyện người bán ngọc** (4 quyển, nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn, 1931)...
Và một số bài viết trên các báo ở Sài Gòn …
Đánh giá
Tác giả Nguyễn Liên Phong trong Điếu cổ hạ kim thi tập (1915) đã ca ngợi Lê Hoàng Mưu như sau:
:''Khen bấy thầy Mưu dạng mỹ miều,
:''Có khoa ngôn ngữ nết không kiêu.
:''Điển Tòa thuở nọ công siêng nhọc,
:''Nông Cổ ngày nay bút dệt thêu.
:''Tuổi hãy xuân xanh khuôn phép đủ,
:''Phước nhờ đầu bạc đắp vun nhiều.
:''Từ đây báo quán thêm khong ngợi,
:''Rảng rảng như chuông cả tiếng kêu.
Đánh giá về sự nghiệp văn chương của ông, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam có đoạn:
:Lê Hoằng Mưu là một nhà báo kỳ cựu, một nhà văn tiên phong miền Nam, đương thời còn nổi tiếng hơn cả Trương Duy Toản, Nguyễn Chánh Sắt... Tiểu thuyết của ông hồi đó "viết ra thiệt nhiều và đều bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm... Ông đã có cái vinh dự tối cao của kẻ đàn anh ăn bước trước mà lại có tài hoa lỗi lạc", như Lãng Tử viết trên báo Phụ nữ Tân văn.
Và trong Từ điển văn học (bộ mới):
:Lê Hoằng Mưu là nhà văn đi trước thời đại, là một ngòi bút viết tiểu thuyết khá độc đáo. Chịu ảnh hưởng của cả hai luồng văn chương Trung Hoa và Âu Mỹ thuở ấy, nhưng ông tìm được cho mình một hướng đi chủ động: không bị chủ đề đạo lý hoàn toàn chi phối, mà từ rất sớm đã biết khơi sâu vào mặt trái của đời sống, dựng lên những cốt truyện khác thường,...lựa chọn những mẫu người có thể nói là "tai tiếng" làm đối tượng cho tác phẩm. Chẳng hạn như cốt truyện "Hà Hương phong nguyệt"...
:''Về nghệ thuật, có một bước tiến ngày càng rõ trong bút pháp viết truyện của Lê Hoẳng Mưu. Từ cách viết chương hồi ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc trong "Tô Huệ Nhi ngoại sử" đến cách viết ngả hẳn sang kết cấu tiểu thuyết phương Tây trong "Người bán ngọc"...Có thể nói Lê Hoằng Mưu là một trường hợp độc xuất trong dòng tiểu thuyết quốc ngữ miền Nam trong vài chục năm đầu của thế kỷ 20, biết phá bỏ những thói quen và bứt nhanh lên khỏi truyền thống. đồng thời có cái nhìn sắc bén vào xã hội thành thị Việt Nam trong buổi giao thời...Ông đã tạo dựng được một vị trí hiếm nhà văn đương thời nào sánh kịp. như tuần báo Mai năm 1939 nhận xét: "Buổi ấy ông là người có "tài sắc" nên tiếng tăm nổi dậy như cồn. Lời văn cũng như lý luận đã lôi cuốn, hấp dẫn, chinh phục tất cả xứ Nam Kỳ và cả thế hệ thanh niên hồi đó".
Nguồn tham khảo
Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Lê Hoằng Mưu" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ: "Lê Hoàng Mưu". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
Bài viết về "Lê Hoằng Mưu" trên website tỉnh Bến Tre [http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=223&Itemid=56] .
Võ Văn Nhơn, "Lê Hoằng Mưu-Nhà văn của những thử nghiệm táo bạo đầu thế kỷ XX" [http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=348%3Ale-hong-mu-nha-vn-ca-nhng-th-nghim-tao-bo-u-th-k-xx&catid=63%3Avn-hc-vit-nam&Itemid=106&lang=vi].
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Ông Lê Hoằng Mưu **Lê Hoằng Mưu** (1879-1941) có sách ghi là **Lê Hoàng Mưu**, bút hiệu **Mộng Huê Lầu** (đảo các mẫu tự họ tên); là nhà văn, nhà báo Việt Nam trong những
**Lê Hoàng** (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1956) là một nam nhà làm phim, tác giả kiêm nhân vật truyền hình người Việt Nam. Được biết đến từ thập niên 1990 trong vai trò
**Lê Duy Vĩ** (chữ Hán: 黎維禕; 1745 - 1772), hay **Lê Hựu Tông** (黎佑宗), còn gọi là **An Định Thái Tử** (安定太子), là một Hoàng thái tử dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch
**Hoàng Đình Ái** (黃廷愛, 1527-1607) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có công giúp nhà Lê trung hưng. Ông sinh ngày 23 tháng 12 năm Đinh Hợi (1527), là người
**Lê Lăng** (chữ Hán: 黎凌; ? - 1462) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những tướng lĩnh chủ chốt trong cuộc chính biến Thiên Hưng, phế Lê
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy** là một loạt các vụ bạo động của những đám đông Công giáo chống lại người Kháng Cách Pháp (_Huguenot_) trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp, được cho là
**Hoàng Đan** (28 tháng 2 năm 1928 – 4 tháng 12 năm 2003) là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông đã tham gia cả hai
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Hải chiến Hoàng Sa** là một trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa.
**Lê Lai** là một tướng lĩnh tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, ông được coi là một anh hùng, một tấm gương trung nghĩa với sự kiện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam là
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Hoàng Viết Tuyển** (黃曰選, ?-1787) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Xuất thân Hoàng Viết Tuyển người xã Vạn Phân, huyện Đông Thành trấn Nghệ An. Ông là thuộc
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**_Án lệ 45/2021/AL_** về xác định bị cáo phạm tội "Giết người" thuộc trường hợp "Phạm tội chưa đạt" là án lệ công bố thứ 45 thuộc lĩnh vực hình sự của Tòa án nhân
**Lê Chiêu Thống** (chữ Hán: 黎昭統 1765 – 1793) hay **Lê Mẫn Đế** (chữ Hán: 黎愍帝), tên thật là **Lê Duy Khiêm** (黎維Tập tin:Nom Character ⿰礻兼.svg), khi lên ngôi lại đổi tên là **Lê Duy
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Minh Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 明慈皇太妃; ?– 1365), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Anh Tư Phu nhân** (英姿夫人) hay **Anh Tư Nguyên phi** (英姿元妃), là một cung
**Lê Trọng Tấn** (1 tháng 10 năm 1914 – 5 tháng 12 năm 1986), tên thật là **Lê Trọng Tố**, là một Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Viện trưởng
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Hoằng Lộc** là một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Xã Hoằng Lộc trước tháng 6 năm 2025 ### Địa lý nhỏ|486x486px|_Vị trí địa lý xã Hoằng Lộc_ Hoằng Lộc cách trung tâm
**Âm Lệ Hoa** (Phồn thể: 陰麗華; giản thể: 阴丽华; 5 - 1 tháng 3, 64), còn gọi là **Quang Liệt Âm hoàng hậu** (光烈陰皇后), nguyên phối nhưng là Hoàng hậu thứ hai của Hán Quang
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại