✨Lê Duy Cận

Lê Duy Cận

Lê Duy Cận (chữ Hán: 黎維Tập tin:Cận.svg, ?–?), hay Lê Duy Cẩn, là một hoàng tử và là nhiếp chính Việt Nam. Ông từng được quân Tây Sơn lập lên làm Giám quốc Đại Việt trong thời gian ngắn ngủi 1787-1788.

Thân thế và trở thành Thái tử

Theo ngọc phả nhà Lê thì Hoàng tử Lê Duy Cận là con trai thứ năm của vua Lê Hiển Tông, tuy nhiên theo Thanh sử cảo thì ông được gọi là Ông Hoàng Tư, nguyên do có thể là vì người anh cả là Duy Lực chết yểu nên không được tính vào danh sách các Hoàng tử. Mẫu thân của ông là Lê Thị Thanh, chưa rõ thân thế lai lịch. Ông có 4 người em cùng mẹ là Duy Trọng (hoàng tử thứ 8), Duy Dược (thứ 9), Duy Cư (thứ 11), Duy Lữ (thứ 14) và 1 em gái là Ngọc Như (hoàng nữ thứ 3).

Người anh thứ 2 của ông, Thái tử Lê Duy Vĩ - do Trần hoàng hậu sinh ra, vốn có hiềm khích với Thế tử Trịnh Sâm. Vì vậy, sau khi lên nối ngôi chúa, tháng 3 (âl) năm 1769, Trịnh Sâm vu tội cho Thái tử Duy Vĩ tư thông với cung tần của Trịnh Doanh, giả mệnh vua Hiển Tông, phế Thái tử làm thứ nhân, giam vào ngục. Các con của Duy Vĩ, cháu của Hiển Tông là Duy Khiêm (sau này là Lê Chiêu Thống), Duy Trù và Duy Chi cũng bị bắt giam.

Hoàng tử Lê Duy Cận, do được lòng của Trịnh Thái phi (mẹ Trịnh Sâm), tháng 8 (âl) năm 1769, được chúa Trịnh lập lên ngôi Thái tử. Tháng 12 năm Tân Sửu (1771), Trịnh Sâm giết Duy Vĩ trong ngục.

Bị phế truất và suýt lên ngôi hoàng đế

Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm chết, con nhỏ là Trịnh Cán lên thay, tức là Điện Đô vương, khi đó mới 6 tuổi. Cuối năm đó, lính kiêu binh cùng nhau nổi dậy phế truất Trịnh Cán, lại lập Trịnh Tông làm chúa. Tháng Giêng năm 1783, lại nổ ra loạn kiêu binh, quân kiêu binh giải thoát cho các con của Duy Vĩ, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công (崇讓公) và lập Duy Khiêm làm người kế vị của Hiển Tông.

Bấy giờ, thế lực chúa Trịnh cũng đã suy yếu, loạn kiêu binh làm đời sống dân chúng xáo trộn, triều đình bất lực, phe phái đấu đá, thanh trừng lẫn nhau. Trong khi đó, ở phía Nam, nhà Tây Sơn trỗi dậy mạnh mẽ, tạm thời trấn áp được thế lực của chúa Nguyễn ở phía Nam. Nhân cơ hội Nguyễn Hữu Chỉnh hiến kế mang quân ra Bắc Hà lấy danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", quân Tây Sơn dưới sự thống lãnh của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, đã dẹp tan các thế lực tàn dư của chúa Trịnh cũng như nạn kiêu binh, tiến quân vào Thăng Long. Nhằm thu phục nhân tâm, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê, vào triều yết, xin ngày cử hành nghi lễ đại triều, dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa ngôi vua nhất thống. Để phủ dụ, vua Lê Hiển Tông cũng sách phong Nguyễn Huệ làm Nguyên soái Phù Chính Dực Vận Uy quốc công, gả con gái là công chúa Lê Ngọc Hân, khi đó mới 16 tuổi, cho Nguyễn Huệ.

Quá sợ hãi quân Tây Sơn, vua Chiêu Thống không dám trở về ngôi vị ở Thăng Long, dù Vũ Văn Nhậm nhiều lần chiêu dụ. Để có chính danh với xứ Bắc Hà, Nhậm dự định tôn hoàng thân Lê Duy Cận làm Giám quốc (監國), nhưng rất ít người Bắc Hà ủng hộ. Nhậm thường xuyên chuyên quyền tự quyết, không thèm đếm xỉa đến Duy Cận, vì vậy, ông còn bị gọi là Đề lại Giám quốc (提吏監國), hàm ý chê bai mang danh nhiếp chính, nhưng chẳng hơn gì viên đề lại nhỏ trong mắt quân Tây Sơn. Lê Quýnh, một người ủng hộ Lê Chiêu Thống, mô tả rằng Duy Cận là "một người ngớ ngẩn".

Hành động chuyên quyền của Vũ Văn Nhậm đã được Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân báo cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ dẫn quân tiến ra bắc và bắt Nhậm xử tử. Lo ngại lòng người Bắc Hà chưa yên và các thế lực chúa Nguyễn ở mặt Nam, Nguyễn Huệ nhanh chóng rút quân khỏi Bắc Hà, nhưng vẫn để Lê Duy Cận làm Giám quốc, giao Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long giữ việc quân chính Bắc Hà.

Biến mất trong lịch sử

Mượn danh nghĩa cầu viện của vua Lê Chiêu Thống, quân Thanh ồ ạt tiến sang Bắc Hà. Đại tư mã Ngô Văn Sở sai Duy Cận viết thư cho Tôn Sĩ Nghị, cố gắng thuyết phục quân Thanh rút lui. Tôn thẳng thừng bác bỏ và tiếp tục tiến quân. Ngày 22 tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, xưng hiệu là Quang Trung, sau đó dẫn quân ra bắc, đánh bại quân Thanh. Vua Lê Chiêu Thống một lần nữa phải đào vong và cuối cùng qua đời ở Trung Quốc. Nhà Hậu Lê kết thúc từ đó. Riêng Giám quốc Lê Duy Cận về sau không được sử sách nhắc đến, không rõ hành trạng của ông thế nào.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Duy Cận** (chữ Hán: 黎維Tập tin:Cận.svg, ?–?), hay **Lê Duy Cẩn**, là một hoàng tử và là nhiếp chính Việt Nam. Ông từng được quân Tây Sơn lập lên làm Giám quốc Đại Việt
**Lê Duy Vĩ** (chữ Hán: 黎維禕; 1745 - 1772), hay **Lê Hựu Tông** (黎佑宗), còn gọi là **An Định Thái Tử** (安定太子), là một Hoàng thái tử dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Lê Duy Lương** (黎維良, 1814 - 1833) là thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Sơn Âm - Thạch Bi (đều thuộc tỉnh Hòa Bình) dưới triều vua Minh Mạng trong lịch sử Việt Nam. ##
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
**Lê Duy Thanh** (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1990 tại Ninh Thuận) là một cầu thủ bóng đá Việt Nam hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Khánh Hòa ở vị trí tiền
**Lê Duy Thành** (sinh năm 1969) là một cựu chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2016-2021_._ Trong Đảng Cộng sản Việt
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương** (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con
**Lê Duy Điếm**, (có tài liệu ghi Lê Duy Điển hay Lê Huy Điển) theo tiểu sử chính thức sinh năm 1906 và mất năm 1930, nguyên là thành viên Việt Nam Thanh niên cách
Với tri thức miền Nam trước 75, tôi luôn yêu mên hai người thầy Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần. Cá nhân tôi đã gắng sưu tầm và công bố tập tác phẩm đăng
**Nguyễn Duy Cần** (1907-1998), hiệu **Thu Giang**, là một học giả, nhà văn, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20. Ông làm nghề viết sách,
**Lê Khắc Cẩn** (chữ Hán: 黎克謹) người làng Hạnh Thị (thuộc huyện An Lão, Hải Phòng ngày nay) đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Tuất (1862) và từng đảm nhiệm nhiều chức vụ dưới triều Tự
**Chiến tranh Lê–Tây Sơn** là cuộc chiến của nhà Lê trung hưng chống lại cuộc xâm chiếm của phe Nguyễn Huệ thuộc nhà Tây Sơn. Cuộc chiến bắt đầu từ cuối năm 1787 khi Nguyễn
Mã hàng 8934974171607 Tên Nhà Cung Cấp NXB Trẻ Tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần NXB NXB Trẻ Năm XB 2021 Ngôn Ngữ Tiếng Việt Trọng lượng gr 314 Kích Thước Bao Bì 19
Dịch học nhập môn - Thu Giang Nguyễn Duy Cần Bộ kinh Chu Dịch tính đến nay theo ước lượng đã có hơn 4500 năm tồn tại và phát triển. Chỉ tính riêng loại sách
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Lê Chiêu Thống** (chữ Hán: 黎昭統 1765 – 1793) hay **Lê Mẫn Đế** (chữ Hán: 黎愍帝), tên thật là **Lê Duy Khiêm** (黎維Tập tin:Nom Character ⿰礻兼.svg), khi lên ngôi lại đổi tên là **Lê Duy
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Cuộc vận động Duy Tân**, hay còn được gọi là **Phong trào Duy Tân** hoặc **Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ** là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do
Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là **đám cưới**, **lễ cưới** hoặc gọn hơn là **cưới**, gọi theo tiếng Hán-Việt là **giá thú**. Đối
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
**Lê Ý Tông** (chữ Hán: 黎懿宗 29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là **Lê Duy Thận** (黎維祳) (hay Lê Duy Chấn) là vị Hoàng đế thứ 14 của
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Cần sa** hay gọi ngắn là **cần** (phiên âm từ danh pháp **Cannabis sativa**) còn được gọi là **marijuana/cannabis**, là một loại chất tác động đến thần kinh từ cây Cannabis. Nó có thể được
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Đa Minh Lê Hữu Cung** (1898–1987) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Bùi Chu từ năm 1975
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Lê Trung Đình** (1863-1885), hiệu: **Long Cang**, là một chí sĩ yêu nước đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp ở Quảng Ngãi trong phong trào Cần Vương. ## Thân thế &
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
**Lê Ngọc Hân** (chữ Hán: , 1770 – 1799), còn gọi **Công chúa** **Ngọc Hân** hay **Bắc cung Hoàng hậu**, là một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam sống ở
**Án lệ 67/2023/AL** về người được nhận hiện vật khi chia tài sản chung là án lệ thứ 67 thuộc lĩnh vực dân sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm
**Bệnh viện Quân y 354** là bệnh viện đa khoa thuộc Tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam. Bệnh viện được thành lập ngày 27 tháng 5 năm 1949 tại Đại Từ,
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
** Giacôbê Lê Văn Mẫn** (1922 – 2001) là một linh mục được bí mật tấn phong Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông được Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn
Tia xịt nhẹ nhàng làm tươi mát và thêm ẩm cho làn da đồng thời làm mịn màng bề mặt da. Giúp chuẩn bị da cho kem dưỡng theo sau thẩm thấu sâu hơn. Tất
**Tỉ lệ** của một hình ảnh là mối quan hệ giữa chiều rộng và chiều cao của hình ảnh đó. Để biểu diễn tỉ lệ thông thường người sử dụng hai số dương viết liền
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Cần Thơ** là Trường cao đẳng đầu tiên và duy nhất vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, chuyên đào tạo nhóm ngành nghệ thuật được thành lập theo
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Nạn kiêu binh** hay **loạn kiêu binh** (_Kiêu binh chi loạn_, 驕兵之亂) là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc