✨Phong trào Duy Tân

Phong trào Duy Tân

Cuộc vận động Duy Tân, hay còn được gọi là Phong trào Duy Tân hoặc Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906 cho đến năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.

Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.

Giới thiệu sơ lược

Sau khi phong trào Cần vương và phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó, theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng phong trào Đông Du (1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động tại miền Trung Việt Nam.

Tinh thần duy tân được coi như bắt đầu từ những bản điều trần của Phạm Phú Thứ (1821-1882), Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895) với văn bản "Thiên hạ đại thế luận" (1892).

Để cứu nước, Phan Bội Châu chủ trương dựa theo mô hình Nhật Bản để xây dựng lực lượng. Vì vậy, ông đã lập ra Hội Duy Tân (1904) với mục đích là lập ra một nước Việt Nam độc lập. Trong quá trình hoạt động của hội, năm 1905, Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du.

Khoảng thời gian ấy, sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh từ quan (1904), rồi làm cuộc Nam du, Bắc du với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Sau đó, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Ông hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập, phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước, nhưng ông phản đối chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo động vũ trang và việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.

Phong trào Duy Tân còn được gọi là Minh xã (Hội ngoài ánh sáng), vì hoạt động công khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự cường" (dựa vào Pháp để giàu mạnh). Còn Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập còn được gọi là Ám xã (Hội trong bóng tối), vì hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc lập".

Tuy nhiên, hai khuynh hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt đối, mà là đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và phần lớn trí thức nho học ủng hộ cả hai phong trào.

Chủ trương và hoạt động

Năm 1906, Phan Châu Trinh ra Bắc, liên lạc với Lương Văn Can và các thân sĩ Bắc Hà để lập cơ sở Duy tân ở Bắc (sau đó gần một năm, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập). Ông cũng tìm gặp Đề Thám, sang Quảng Châu gặp Phan Bội Châu rồi cùng sang Nhật quan sát tình hình chính trị và dân trí nước Nhật, khi bàn luận và biết là không cùng chí hướng với Phan Bội Châu, ông về nước, xúc tiến con đường Duy Tân.

Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức thư chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.

Liền theo đó, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

*Khai dân trí: Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa...

*Chấn dân khí: Làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu được quyền lợi của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào...

*Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa...

Ngoài ra, Phan Châu Trinh còn viết bài Tỉnh quốc hồn ca để kêu gọi mọi người hăng hái duy tân theo hướng dân chủ tư sản.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một số sĩ phu như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương cải cách ôn hòa, nghị viện. Họ vận động mở trường dạy học, cải đổi phong tục tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang công thương. Một số khác như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên thì thiên về khuynh hướng bạo động...

Sau đây là một số hoạt động nổi bật theo khuynh hướng ôn hòa:

*Về lĩnh vực kinh tế: Thông qua việc mua bán để tập hợp nhau lại. Tiền kiếm được dùng để mở trường, nuôi thầy, cấp phát sách vở cho học sinh. Vì vậy, việc mua bán này còn được gọi là Quốc thương.

Đáng kể ở Quảng Nam có Hợp thương diên phong của cử nhân Phan Thúc Duyên, hiệu buôn của bang tá Nguyễn Toản. Ở Phan Thiết, có Công ty Liên Thành của Nguyễn Trọng Lội (con danh sĩ Nguyễn Thông). Ở Nghệ An, có Triêu Dương thương quán do Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế thành lập...

*Về lĩnh vực giáo dục: Mở trường dạy học để mở mang dân trí. Các môn học được giảng dạy ở nhiều trường là: Quốc ngữ, toán, cách trí (khoa học thường thức), sử Việt, địa lý, thể dục...Có nơi, còn dạy thêm tiếng Pháp, chữ Hán và võ Việt. Ngoài ra, nhà trường còn là nơi tuyên truyền mở rộng công, thương nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, phê phán quan lại, đả phá tập tục lạc hậu, thực hiện đời sống mới...

Đáng kể ở Quảng Nam có trường Diên Phong do Trần Quý Cáp tổ chức, trường Phú Lâm (có một lớp dành riêng cho nữ sinh), trường do Lê Cơ (anh em họ với Phan Châu Trinh) thành lập. Ở Quảng Ngãi, có trường do cử nhân Nguyễn Đình Quảng thành lập tại làng Sung Tích (Sơn Tịnh). Ở Phan Thiết, ngoài Công ty Liên Thành, Nguyễn Trọng Lội còn lập trường tư thục Dục Thanh (1907) rồi giao cho em ruột là Nguyễn Quý Anh làm quản đốc. Ở Bình Thuận, một thư xã (nhà giảng sách) được thành lập (1905) tại đình Phú Tài. Ở Thanh Hóa có Hạc thành thư xã, v.v...

Theo Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký do Phan Chu Trinh viết, thì "trong năm 1906, 40 trường dân lập kiểu mới đã được mở ra ở Quảng Nam"... Trường Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập tại Hà Nội tháng 3 năm 1907 cũng là nhờ công xúc tiến của ông.

Cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực (nổi bật là hai lĩnh vực vừa nêu trên), được sự hưởng ứng đông đảo của giới sĩ phu và dân chúng, nên ngày càng phát triển mạnh. Bởi vậy, chính quyền thực dân và phong kiến tìm mọi cách ngăn cấm. Như việc tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung cấm không cho dân chúng tụ tập nghe diễn thuyết, Đặng Nguyên Cẩn đang là đốc học Hà Tĩnh bị đổi vào Bình Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức Kế bị bắt vì án sát Cao Ngọc Lễ vu cho tội mưu loạn, Lê Đình Cẩn bị công sứ Quảng Ngãi xét hỏi nhiều lần...

Bị đàn áp và giải tán

Đến năm 1908, nhân dân Trung Kỳ đang điêu đứng vì nạn sưu thuế, đã đứng lên làm cuộc đấu tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" (sử Việt thường gọi là Phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ). Khởi đầu là ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa Vang, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam; rồi lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh...

Khi nổ ra phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ, do các lãnh đạo chủ chốt của phong trào kháng thuế cũng đồng thời tham gia phong trào Duy Tân và do lo sợ phong trào Duy Tân ảnh hưởng xấu đến nền cai trị nên chính quyền thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn thẳng tay đàn áp. Họ ra lệnh phải đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Đồng thời cho lính đi lùng sục bắt bớ hàng trăm người có liên quan, trong đó các thành viên lãnh đạo phong trào Duy Tân. Một số người có liên quan đến phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ bị chính quyền nhà Nguyễn tại các tỉnh kết án tử hình, như Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan... Những người khác chỉ tham gia phong trào Duy Tân bị đày đi Côn Đảo (trong số đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Ngô Đức Kế...) hay Lao Bảo. Đến cuối tháng 5 năm 1908, cuộc đấu tranh chống sưu thuế và phong trào Duy Tân đều kết thúc.

Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã khẳng định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến trình độ giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó, qua phong trào còn cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ...

Nhận xét

  • Nguyễn Hiến Lê: : Cụ Tây Hồ là người mở đường cho phong trào Duy Tân ở nước nhà. Lập (Đông kinh) Nghĩa thục, một phần công lớn là của cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là cụ, liệng cái phó bảng mà ra lập hiệu buôn cũng là cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận Âu Phục bằng nội hoá thì người đầu tiên cũng lại là cụ"
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc vận động Duy Tân**, hay còn được gọi là **Phong trào Duy Tân** hoặc **Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ** là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do
**Phong trào Minh Tân** (còn gọi là **phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ**) do **Hội Minh Tân** (kể từ đây trở đi có khi gọi tắt là Hội) đề xướng và lãnh đạo, là
Sơn Nam - Phong Trào Duy Tân Ở Bắc, Trung, Nam - Miền Nam Đầu Thế Kỷ XX - Thiên Địa Hội Và Cuộc Minh Tân Phong trào Duy Tân là cuộc đấu tranh chính
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Phong trào Đông Du** là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập,
**Duy tân Hội** (chữ Hán: 維新會, tên gọi khác: **Ám xã**) là một tổ chức kháng Pháp do Phan Bội Châu, Nguyễn Tiểu La và một số đồng chí khác thành lập năm 1904 tại
**Phong trào Giám lý** là một nhóm các giáo hội có mối quan hệ lịch sử với nhau thuộc cộng đồng Kháng Cách. Bắt nguồn từ cuộc chấn hưng tôn giáo khởi phát bởi John
Trong thập niên đầu của thế kỷ XX, phong trào Minh Tân bùng lên mạnh mẽ ở Nam kỳ. Đây là một phong trào yêu nước diễn ra cùng thời, vừa có tính độc lập
**Phong trào Ngũ tuần** hoặc **Phong trào Thất tuần** (theo cách gọi của các tín hữu Tin Lành) là một trào lưu Tin Lành tập chú vào trải nghiệm cá nhân nhận lãnh sự thanh
nhỏ|Biểu tình vì hòa bình ở [[Tel Aviv năm 2014]] nhỏ|Bìa của _Die Friedens-Warte_, một tạp chí của phong trào hòa bình ở Đức, số 11, 1913 **Phong trào hòa bình** là một phong trào
**Phan Châu Trinh** hay **Phan Chu Trinh** (chữ Hán: 潘周楨; 1872 – 1926), hiệu là **Tây Hồ** (西湖), biệt hiệu **Hy Mã** (希瑪), tự là **Tử Cán** (子幹). Ông là nhà thơ, nhà văn, và
**Thái Phiên** (1882 - 1916) là một nhà hoạt động cách mạng, đã cùng với Trần Cao Vân và vua Duy Tân lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung Kỳ Việt Nam, do
**Phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ** năm 1908 hay còn gọi là **Trung Kỳ dân biến** là một trong những sự kiện nổi bật của phong trào chống thực dân Pháp ở Việt Nam
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
nhỏ|phải|277x277px|Đại học Duy Tân cơ sở 254 Nguyễn Văn Linh, Đà Nẵng **Đại học Duy Tân** (tiếng Anh: **Duy Tan University**) tiền thân là Trường Đại học Duy Tân, thành lập năm 1994. Đây là
**Bách nhật duy tân** (chữ Hán: 百日維新), còn gọi là **Mậu Tuất biến pháp** (戊戌变法), **Mậu Tuất duy tân** (戊戌維新) hoặc **Duy Tân biến pháp** (維新變法), đều là tên dùng để chỉ cuộc biến pháp
nhỏ|Hình ảnh những người đang chào theo kiểu Quốc xã, trong khi một người không xác định danh tính tên August Landmesser từ chối làm như vậy. **Phong trào chống đối Hitler** gồm những hoạt
**Tống Duy Tân** (chữ Hán: 宋維新; 1837 - 1892) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 - 1892) trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế & sự nghiệp **Tống Duy Tân** là
**Trương Duy Toản** (1885-1957), tự **Mạnh Tự**, bút hiệu **Đổng Hổ**, là một nhà văn, nhà báo, nhà soạn tuồng, nhà cách mạng Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. ## Tiểu sử **Trương
**Mai Lão Bạng** (1866-1942), tục gọi là **Già Châu**, là một tu sĩ Công giáo và là một chí sĩ cách mạng trong các phong trào Duy Tân, Đông Du, Việt Nam Quang phục Hội
**Phong trào Ái quốc Tam Tự** (chữ Anh: _Three-Self Patriotic Movement_), hoặc gọi **Hội Thánh Tam Tự**, là cơ quan giám sát chính thức của nhà nước đối với Tin Lành tại Trung Quốc. **Uỷ
**Cải cách Minh Trị**, hay **Cách mạng Minh Trị**, hay **Minh Trị Duy tân**, (明治維新 _Meiji-ishin_) là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu
**Phong trào Du ca Việt Nam** do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Ban Trầm Ca thành lập vào năm 1966 tại miền Nam Việt Nam. Du ca là một đoàn thể hoạt động về
**Phong trào Cần Vương** (chữ Nôm: 風潮勤王) nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng trước cuộc xâm lược của
phải|Sáu sáng lập viên của LTTQ: Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh (hàng trên), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng (hàng dưới). **Liên Thành Thương Quán**, tên đăng ký
Chân dung Nguyễn An Khương **Nguyễn An Khương** hay **Nguyễn An Khang** (1860-1931); là dịch giả và là chí sĩ ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông là cha của nhà
nhỏ|Một poster phản chiến nhỏ| Một [[Những biểu tượng hòa bình|biểu tượng hòa bình, ban đầu được thiết kế cho Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND) của Anh ]] **Phong trào chống
**Trần Quý Cáp** (chữ Hán: 陳季恰; 1870 – 1908), tự **Dã Hàng**, **Thích Phu**, hiệu là **Thai Xuyên**. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thai La,
**Hoàng Đạo Thành** (1835-1908) là một sử gia Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và là một chí sĩ hoạt động trong Phong trào Duy Tân. Ông cũng là cha của
**Đặng Nguyên Cẩn** (1867-1923), tên cũ là **Đặng Thai Nhận**, hiệu **Thai Sơn**, **Tam Thai**; là chí sĩ cận đại trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Ông sinh trưởng tại làng Lương Điền,
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
**Phan Thành Tài** (1878 - 1916), một nhà yêu nước Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Và là một trong những yếu nhân của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội (thường gọi là
thumb|left|Cộng hòa Đông Turkistan, 1944–1949 thumb|Cờ Đông Turkestan _Kök Bayraq_ trở thành một biểu tượng của phong trào độc lập Đông Turkestan. thumb|Biểu tượng Đông Turkestan, nổi bật với [[basmalah được cách điệu như một
nhỏ|Những người biểu tình trong Chiến tranh Việt Nam tuần hành tại [[Lầu năm góc ở Washington, D.C. vào ngày 21 tháng 10 năm 1967.]] **Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam** là
**Huỳnh Thúc Kháng** (chữ Nho: 黃叔沆, 1 tháng 10 năm 1876 – 21 tháng 4 năm 1947), tự **Giới Sanh**, hiệu **Mính Viên** (hay đôi khi được viết là **Minh Viên**), là một chí sĩ
phải|Sáu sáng lập viên của [[trường Dục Thanh và công ty Liên Thành: Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, **Nguyễn Quý Anh** (hàng trên), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng (hàng dưới).]]
Sáu sáng lập viên của [[trường Dục Thanh và công ty Liên Thành: **Hồ Tá Bang (trên cùng, trái)**, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh (hàng trên), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn
**Phong trào Thánh khiết** qui tụ các tín hữu Cơ Đốc là những người xác tín và rao giảng đức tin cho rằng "bản chất xác thịt" của con người có thể được thanh tẩy
**Đặng Văn Bá** (1873-1931), hiệu **Nghiêu Giang**, là một chí sĩ trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Đặng Văn Bá sinh trưởng tại xã
phải|Sáu sáng lập viên của [[trường Dục Thanh và công ty Liên Thành: Hồ Tá Bang, **Nguyễn Trọng Lội (hàng trên, giữa)**, Nguyễn Quý Anh (hàng trên), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn
**Nguyễn Đình Quản** (阮廷筦; 1878 – 1910), tự **Khánh Bá**, là sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân. ## Thân thế Nguyễn Đình Quản là con trai của tú tài Nguyễn Văn Quế,
**Shishi** (志士 hay _Chí sĩ_; đôi khi còn được gọi là 維新志士 **Ishin-shishi** hay _Duy tân chí sĩ_) là cụm từ được dùng để nói về các nhà hoạt động chính trị vào cuối thời
**Phong trào Ca khúc Chính trị** là một sinh hoạt văn nghệ quần chúng tiêu biểu tại Việt Nam thập niên 1980. ## Lịch sử Trong _Hồi ký của một thằng hèn_, nhạc sĩ Tô
**Phạm Duy Tân** (1933–2021) là một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Đại tá, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308, phó Tư lệnh Quân đoàn 1, thường vụ Đảng ủy,
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Phan Bội Châu** (chữ Hán: 潘佩珠; 1867 – 1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc. ## Tên gọi Phan Bội Châu vốn tên
Dòng họ Đặng là một trong những dòng họ nổi tiếng về khoa bảng, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Các con cháu trong dòng họ đều tham gia các phong trào
thumb|Tuần hành ngày 21 tháng 2 năm 1952 tại [[Dhaka]] **Phong trào ngôn ngữ Bengal** là một phong trào chính trị tại Đông Bengal (nay là Bangladesh) chủ trương công nhận tiếng Bengal là một
Chân dung Trần Chánh Chiếu **Trần Chánh Chiếu** (1868-1919), còn gọi là **Gibert Trần Chánh Chiếu** (gọi tắt là **Gibert Chiếu**), hiệu **Quang Huy**, biệt hiệu **Đông Sơ**, các bút danh: **Kỳ Lân Các, Nhựt