✨Hoàng Cơ Minh

Hoàng Cơ Minh

Hoàng Cơ Minh (1935 - 1987), nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở trường Sĩ quan Hải quân được Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra trên cơ sở cũ của Quân đội Pháp tại Duyên hải Trung phần. Ông nguyên là Tư lệnh Hải quân Vùng 2 Duyên hải (Hải khu II) của Quân chủng Hải quân Việt Nam Cộng hòa.

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông di tản sang Mỹ và đã cùng với một số chiến hữu lập ra Đảng Việt Tân. Ông là lãnh đạo của đảng này và là Chủ tịch Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam tại Hải ngoại trong thời gian từ 1975 đến 1987. Năm 1987, trong lần vượt biên trái phép vào Lào để đưa quân qua Việt Nam, ông đã bị các đơn vị của Quân đội Nhân dân Lào chặn đánh, ông trúng đạn bị thương, sau đó tự sát.

Tiểu sử và binh nghiệp

Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935 trong một gia đình khoa bảng và khá giả có đông anh chị em tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Thời niên thiếu, ông là học sinh các trường theo giáo trình Pháp: Trung học Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội. Tốt nghiệp Tú tài toàn phần (Part II). Sau này trong quân ngũ, ông ghi danh học tiếp trường Đại học Luật khoa Sài Gòn và tốt nghiệp 2 chứng chỉ Cử nhân luật.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Trung tuần tháng 7 năm 1954, từ dân chính ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 55/700.015. Ông được theo học khóa 5 trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, khai giảng ngày 27 tháng 7 năm 1954. Ngày 25 tháng 5 năm 1955, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Hải quân Thiếu úy ngành chỉ huy. Ra trường, ông được chuyển đến phục vụ tại Giang đoàn Xung phong.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1958, gần 2 năm sau khi từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Hải quân Trung úy, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Phân đội 4 thuộc Trục lôi hạm Bạch Đằng II HQ-116. Đến đầu năm 1961, ông được thăng cấp Hải quân Đại úy tại nhiệm.

Đầu năm 1963, ông được bổ nhiệm chức vụ Hạm trưởng Trục lôi hạm Bạch Đằng II HQ-116. Tháng 5 cùng năm được cử đi du học tu nghiệp tại trường hậu Đại học Hải quân Hoa Kỳ (US. Naval Post Graduate School) ở Monterrey thuộc Tiểu bang California. Tháng 10 mãn khóa học về nước, ông được cử làm Chỉ huy phó Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang do Hải quân Thiếu tá Dư Trí Hùng làm Chỉ huy trưởng, kế tiếp Trung tá Nguyễn Đức Vân thay Trung tá Hùng chức vụ Chỉ huy trưởng. Sau cuộc đảo chính 1 tháng 11, ngày 2 tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Hải quân Thiếu tá tại nhiệm.

Đầu năm 1965, ông được cử đi làm Tuỳ viên Quân lực ở Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Seoul, Hàn Quốc do ông Ngô Tôn Đạt (là anh vợ của ông) làm Đại sứ.

Tháng 10 năm 1967, hết hạn nhiệm vụ Tuỳ viên Quân lực, ông được triệu hồi về nước. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Hải quân Trung tá, giữ chức vụ Trưởng khối Chiến tranh Chính trị (Trưởng phòng 5) tại Bộ tư lệnh Hải quân. Đến đầu năm 1969, ông được cử theo học lớp Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Đà lạt. Tháng 6 cùng năm mãn khóa về lại Bộ Tư lệnh Hải quân ông được giữ chức vụ Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị.

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1971, ông được thăng cấp Hải quân Đại tá và được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211. Ngày 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng tại nhiệm.

1975

Thượng tuần tháng 3, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân Vùng 2 Duyên hải (Hải khu II) kiêm Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 232 tại Đặc khu Cam Ranh. Sáng ngày 2 tháng 4, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trấn Quy Nhơn.

Di tản và định cư tại Mỹ

Đêm ngày 29 tháng 4, ông di tản ra khơi trên Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ-03 do HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu làm Hạm trưởng. Khi sang tới Mỹ, theo hồ sơ di trú ông chỉ có 200 USD trong tài khoản và vài chiếc nhẫn.

Thành lập Mặt trận và Chiến khu

Tại nơi định cư, từ năm 1976 đến năm 1978, ông thành lập "Lực lượng Quân nhân Việt Nam Hải ngoại". Năm 1979, thành lập "Lực lượng Quân dân Việt Nam Hải ngoại".

Ngày 30 tháng 4 năm 1980, tại miền nam Tiểu bang California, ông thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam kết nạp một số sĩ quan và viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa làm nòng cốt.
Năm 1981, ông và các chiến hữu lập căn cứ tại một điểm gần biên giới Thái Lan - Lào thuộc huyện Buntharích, tỉnh Uđông (Thái Lan), cách Bangkok 500 km về phía Đông Bắc.

Ngày 10 tháng 7 năm 1982, tại căn cứ này, ông đã tổ chức Đại hội lập ra "Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng" gọi tắt là "Đảng Việt Tân", đưa ra cương lĩnh, xác định mục tiêu là xóa bỏ chế độ Cộng sản tại Việt Nam.

Ngày 27 tháng 12 năm 1983, ông lập ra đài phát thanh Việt Nam Kháng chiến và cho xuất bản tờ báo Kháng chiến bằng tiếng Việt, phát hành tại Mỹ và nhiều nước khác. Từ năm 1983 đến 1985, ông vào các Trại tỵ nạn người Việt trên đất Thái Lan tuyển mộ được 200 người đưa về căn cứ để huấn luyện và lập thành bốn Quyết đoàn mang bí số 7684, 7685, 7686, 7687. Mỗi Quyết đoàn có quân số khoảng 50 người.

Đông tiến về Việt Nam

Ngày 24 tháng 2 năm 1982, tại chiến khu U-Đông ông họp báo công bố cương lĩnh chính trị và sau đó bắt đầu tổ chức những đợt hành quân Đông tiến, xuyên Lào trở về Việt Nam.

Năm 1985, ông tổ chức cho chiến hữu Đặng Quốc Hiền, Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Kháng chiến dẫn đầu 40 binh sĩ trở về Việt Nam. Toán xâm nhập bị quân Lào chặn đánh, Tư lệnh Đặng Quốc Hiền bị giết.

Ngày 15 tháng 5 năm 1986, ông và các chiến hữu tổ chức cuộc hành quân "Đông Tiến I" giao cho chiến hữu Dương Văn Tư, Tư lệnh thay Đặng Quốc Hiền dẫn 100 quân xâm nhập Việt Nam. Ngày 19 tháng 9 năm 1986, khi vừa đặt chân lên biên giới Việt Nam toán quân của cựu Đại tá Dương Văn Tư bị Lực lượng Biên phòng Việt Nam (đồn 637), Lào và Campuchia chặn đánh và gây tổn thất.

Ngày 1 tháng 12 năm 1986, ông và các chiến hữu mở cuộc hành quân "Đông Tiến II" xâm nhập Việt Nam và đích thân chỉ huy. Khi toán quân chuẩn bị vượt sông Mekong thì bị liên quân Lào – Việt phối hợp bắn chặn nên buộc phải quay về căn cứ.

Ngày 7 tháng 7 năm 1987, ông trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân "Đông Tiến II" lần thứ 2 với mục tiêu xâm nhập Việt Nam đến Tây Nguyên, để xây dựng căn cứ. Theo kế hoạch, toán quân sẽ vượt sông Mekong, sang tỉnh Xalavan – miền Nam nước Lào rồi từ đó, dưới sự dẫn đường của 20 thổ phỉ Lào, sẽ đi về tỉnh Sêkông và xâm nhập khu vực ngã ba biên giới, thuộc tỉnh Kon Tum, Việt Nam.

Ngày 11 tháng 7 năm 1987, đoàn quân vượt sông Mekong vào đất Lào. Hai mươi ngày sau khi tiến gần đến biên giới Việt Nam thì bị quân đội Lào phối hợp với quân du kích chặn đánh tổng cộng 15 trận. Đêm 27 tháng 8 năm 1987, trong trận đánh cuối cùng ông bị thương và tự tử, toán quân tan rã, một số chạy về Thái Lan, một số bị bắt sống. Trong toán quân có 130 người xâm nhập vào đất Lào thì 83 chết, 19 bị bắt sống, số còn lại đã bỏ trốn. Tháng 12 năm 1987, tại Tp HCM, Tòa án Nhân dân tối cao của Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử "Vụ án Hoàng Cơ Minh cùng đồng bọn" và tuyên phạt: 1 chung thân, 15 án từ 3 đến 19 năm tù giam, một án treo, 1 tha bổng). Tại phiên tòa này, dù đã tự sát trước đó, ông bị tuyên án tử hình vì tội phản quốc.__

Sau khi trở về Hoa Kỳ, ngày 10 tháng 4 năm 1991 một số thành viên khác có tham gia trong chiến dịch Đông Tiến bị truy tố về các gian lận tài chính. Đông tiến đến đây kết thúc''.

Nhận định

Là tướng lãnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa duy nhất tự sát tại mặt trận sau năm 1975, ông được nhiều người Việt tị nạn tại hải ngoại ca ngợi vì sự dũng cảm, hy sinh cũng như là sự liêm khiết thời quân ngũ trước 1975. Trong các buổi lễ tưởng niệm "Anh hùng Đông Tiến", Đảng Việt Tân vẫn luôn ca ngợi hình ảnh của ông cùng các chiến hữu trong "công cuộc đấu tranh giải phóng Việt Nam khỏi chế độ Cộng sản".

Tuy nhiên, tại hải ngoại, cá nhân ông cùng Đảng Việt Tân cũng bị rất nhiều chỉ trích. Nhiều dư luận hải ngoại chỉ trích ông và tổ chức mặt trận về các hành vi gian dối trong các bài báo về việc mặt trận đã đánh thắng nhiều trận với Quân đội nhân dân Việt Nam, chiếm được nhiều đồn, bót, được dân chúng trong nước chào đón nồng nhiệt, có hơn 10.000 quân số võ trang tại biên thùy quốc nội (dù thực tế rằng trước và sau khi ông mất, tổ chức Mặt Trận chưa đặt chân được đến Việt Nam, chiến dịch Đông Tiến II xâm nhập Việt Nam do ông chỉ huy bị Pathet Lào đánh bại). Lý giải cho việc này, ông Đỗ Thông Minh, người từng làm báo "Kháng chiến" cho Mặt Trận chia sẻ rằng: "Do đồng bào hải ngoại đóng góp nhiều cho kháng chiến nên nhiều người có thắc mắc là vì sao tổ chức kháng chiến đã lâu mà không thấy đánh với Cộng sản? Và thật ra những tin tức về kháng chiến cũng do phía Mặt trận từ chiến khu cung cấp cho hải ngoại chứ ở ngoài này (hải ngoại) không kiểm chứng được". Ông Đỗ Thông Minh cũng cho biết thêm, việc tổ chức "kháng chiến, xâm nhập về Việt Nam" phải tiến hành trong một thời gian dài do phải dò đường, giao liên, tiếp tế, lựa chọn thời điểm hành quân,... chứ không thế tiến hành một cách nôn nóng, gấp gáp được; trong khi những người đóng góp cho Kháng chiến tại hải ngoại luôn nóng lòng chờ kết quả của kháng chiến. cũng như tiến hành ám sát nhiều nhà báo tại hải ngoại vì những bài báo phơi bày nhiều sự thật về kháng chiến. Sau khi ông mất, tổ chức Mặt Trận cũng bị tố cáo về những gian lận tài chính. Tổ chức Việt Tân sau này cũng bị dư luận chỉ trích vì đã che giấu sự thật về cái chết của ông vào năm 1987 (đến năm 2001 thì Mặt trận mới công bố sự thật về ngày mất của ông và Mặt trận cũng giải tán vào năm 2004 để thành lập Việt Tân).

Dư luận báo chí tại Việt Nam lên án hành động xâm nhập vũ trang vào Việt Nam của ông là hành động khủng bố, âm mưu lật đổ chế độ, Báo chí tại Việt Nam có nhiều bài báo lên án hành động của Hoàng Cơ Minh như phản động, khủng bố, lừa gạt tiền của đồng bào hải ngoại,... Tại phiên tòa tháng 12 năm 1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh, dù đã tự sát trước đó, ông bị tuyên án tử hình vì tội phản quốc.

Gia đình

Vợ và ba con. Cha: Hoàng Huân Trung (1877 - 1950): thi đỗ Cử nhân Hán học năm 1903, tốt nghiệp trường Hậu bổ năm 1906, nguyên là Tuần phủ, Tổng đốc, Hội trưởng Hội Khai trí Tiến Đức ở miền Bắc thời Pháp thuộc. Chị gái:
- Hoàng Thị Nga (là chị cùng cha khác mẹ): Tiến sĩ Vật lý, bà là người Việt đầu tiên Tây học (năm 1935), sinh sống tại Pháp.
- Hoàng Thị Châu An: phu nhân của ông Đỗ Thúc Vịnh, mẹ của Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch hiện tại của Đảng Việt Tân. Bà hiện định cư tại Hoa Kỳ.
Anh trai:
- Hoàng Cơ Bình (1909 - 1988): Nha sĩ, nguyên ứng cử viên Tổng thống cùng liên danh với ông Lưu Quang Khình nhiệm kỳ 1967 - 1971 (thất cử). Ông là cha của Y sĩ - Đại tá Hoàng Cơ Lân, nguyên Y sĩ trưởng Sư đoàn Nhảy dù trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
- Hoàng Cơ Thụy (1912 - 2004): Luật sư, tác giả sách Việt sử Khảo luận, nguyên Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Lào 1969 - 1975.
- Hoàng Cơ Long: Luật sư, định cư tại Hoa Kỳ.
- Hoàng Cơ Nghị: Cử nhân khoa vật lý học, giáo sư trường Trung học Bảo hộ. *Em trai:
- Hoàng Cơ Trường: Y sĩ - Đại úy thuộc Sư đoàn Thủy quân Lục chiến.
- Hoàng Cơ Định: tốt nghiệp Tiến sĩ Hóa học tại Pháp, nguyên Giám đốc khoa Hóa học tại Đại học Phú Thọ, Sài Gòn.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Cơ Minh** (1935 - 1987), nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa
**Hoàng Cơ Bình** (8 tháng 4 năm 1909 – 30 tháng 10 năm 1988) là nha sĩ người Việt Nam, nguyên ứng cử viên tổng thống Việt Nam Cộng hòa năm 1967. ## Tiểu sử
**Hoàng Tích Mịnh** sinh ngày 10 tháng 11 năm 1904 tại Đông Ngạc, Từ Liêm (nay là Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm), Hà Nội và mất năm 2001, là vị bác sĩ đã có công
**Lăng tẩm hoàng gia Minh – Thanh** () là quần thể các lăng tẩm, địa điểm chôn cất được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Những lăng tẩm này có từ triều đại
**Tạ Hoàng Cơ** (1911 – 1996) là nhà hoạt động cách mạng, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ông sinh ngày 22/12/1911 tại xã Liên
**Hoàng Cơ Thụy** (1912 – 2004) là luật sư, chính khách và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Lào. ## Tiểu sử
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Hiếu Nghị Tương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝毅襄皇后; 1605 - 1646), Hoàng hậu duy nhất của Minh Thiệu Tông Long Vũ Đế, Hoàng đế thứ hai nhà Nam Minh. Bà cũng là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Hoàng Thị Minh Hồng** là một nhà hoạt động môi trường người Việt Nam. Năm 2019, tạp chí Forbes đã bình chọn bà là một trong [https://baochinhphu.vn/forbes-viet-nam-cong-bo-danh-sach-50-phu-nu-anh-huong-nhat-viet-nam-102252844.htm 50 phụ nữ có tầm ảnh hưởng nhất]
**Minh Thế Tông Trương Phế hậu** (chữ Hán: 明世宗張廢后; ? - 3 tháng 1, 1537), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. ## Thân thế Trương thị tên **Thất Tỉ**
**Hoàng Thị Nga** (1903 - 1970) là nữ Tiến sĩ khoa học đầu tiên người Việt Nam. Bà cũng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Khoa học Việt Nam Dân chủ Cộng
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
, hay **Thời đại Meiji**, là thời kỳ 45 năm dưới triều Thiên hoàng Minh Trị, theo lịch Gregory, từ 23 tháng 10 năm 1868 (tức 8 tháng 9 âm lịch năm Mậu Thìn) đến
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
**Minh Thập Tam lăng** () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Vọng cổ**, hay **vọng cổ Bạc Liêu**, là điệu nhạc rất thịnh hành ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Bắt nguồn từ bài _"Dạ cổ hoài lang"_ (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng)
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Elsa**, còn được biết đến với tên gọi **Nữ hoàng băng giá**, là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 của Walt Disney Animation Studios, _Nữ
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
Bản khắc bằng đồng Schmalkalden, nơi thành lập Liênminh Schmalkaldic (1645) nhỏ|Hợp đồng quân sự của Liên minh Schmalkaldic, gia hạn năm 1536 (Cơ quan lưu trữ Weimar) **Liên minh Schmalkaldic** là một liên minh